HUY THANH
I- LƯỢC KHẢO:
Trận tấn công Trân Châu Cảng hay là Chiến dịch Hawaii theo
cách gọi của Bộ Tổng tư lệnh Nhật Bản là một đòn tấn công quân sự bất
ngờ được Hải quân Nhật Bản thực hiện nhằm vào căn cứ hải quân của Hoa Kỳ
tại Trân Châu Cảng thuộc tiểu bang Hawaii vào sáng Chủ Nhật, ngày 7
tháng 12 năm 1941, dẫn đến việc Hoa Kỳ sau đó quyết định tham gia vào
hoạt động quân sự trong Thế chiến thứ hai. Trận đánh này được trù tính
sẽ ngăn ngừa và giữ chân Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ không can thiệp
đến cuộc chiến mà Nhật Bản đang hoạch định nhằm xâm chiếm Đông Nam Á.
Cuộc tấn công bao gồm hai đợt không kích với tổng cộng 353 máy bay xuất
phát từ sáu tàu sân bay Nhật Bản. Trận tấn công đã đánh chìm bốn thiết
giáp hạm Hoa Kỳ (hai chiếc trong số đó sau này được vớt lên và đưa trở
lại hoạt động), và gây hư hỏng cho bốn chiếc khác. Quân Nhật còn đánh
chìm hoặc phá hoại ba tàu tuần dương, ba tàu khu trục và một tàu thả
mìn, phá hủy 188 máy bay, gây tổn thất về nhân mạng là 2.402 người tử
trận và 1.282 người khác bị thương. Các trạm phát điện, xưởng tàu, xưởng
sửa chữa và các kho chứa nhiên liệu và ngư lôi, cùng các bến tàu dành
cho tàu ngầm và tòa nhà sở chỉ huy (cũng là nơi đặt bộ phận tình báo) đã
không bị đánh trúng. Thiệt hại về phía Nhật Bản nhỏ, chỉ mất 29 máy bay
và bốn tàu ngầm bỏ túi, với 65 người thương vong.Cuộc tấn công là một
sự kiện lớn trong Thế chiến thứ hai. Nó đã diễn ra trước khi có bất cứ
một lời tuyên chiến chính thức nào được đưa ra. Tòa Đại sứ Nhật Bản ở
Washington đã được chỉ thị phải chuyển giao thông điệp này ngay trước
thời điểm trù định cho cuộc tấn công ở Hawaii. Cuộc tấn công, và đặc
biệt là bản chất “bất ngờ” của nó, là hai nhân tố khiến cho công chúng
Hoa Kỳ thay đổi quan điểm từ những người theo chủ nghĩa biệt lập
(Isolationism) như vào những năm giữa thập niên 1930 sang ủng hộ việc
Hoa Kỳ tham chiến. Nhật Bản đã không đưa ra một lời tuyên chiến chính
thức nào trước khi thình lình tấn công Trân Châu Cảng, trong khi hai
quốc gia Hoa Kỳ và Nhật Bản vẫn còn đang trong giai đoạn đàm phán, vì
thế cuộc tấn công bất ngờ này bị dư luận quốc tế xem là đánh lén (sneak
attack), và Tổng thống Franklin D. Roosevelt HOA KỲ tuyên bố rằng ngày 7
tháng 12 năm 1941 "sẽ sống mãi trong sự khinh bỉ" ("A date which will
live in infamy"). Tiếp theo Hoa Kỳ, Anh và các thuộc địa của Anh, chính
phủ Hà Lan và một loạt các quốc gia Mỹ Latinh cũng tuyên chiến với Nhật.
Về phía phe Trục, ngày 11 tháng 12, Đức Quốc xã và Ý cũng tuyên chiến với Hoa Kỳ lấy cớ là Hoa Kỳ đã phá vỡ “sự trung lập”.
II -NGUYÊN NHÂN CUỘC CHIẾN :
Đòn tấn công được trù tính sẽ vô hiệu hóa Hạm đội Thái Bình Dương Hoa
Kỳ, nhờ đó bảo vệ cho kế hoạch xâm lược Malaya và Đông Ấn thuộc Hà Lan
của Nhật Bản, nơi người Nhật đang tìm kiếm các nguồn nguyên liệu thiên
nhiên như dầu mỏ và cao su..Vào năm 1940 dựa vào điều khoản trong Đạo
luật Kiểm soát Xuất khẩu, phía Hoa Kỳ đã hoãn lại mọi chuyến hàng xuất
khẩu máy bay, linh kiện, máy công cụ và xăng máy bay, điều mà phía Nhật
Bản xem là một hành động không thân thiện.Ban tham mưu hải quân Nhật đã
nghiên cứu một cách sâu sắc sự kiện Anh Quốc tấn công hạm đội Ý tại cảng
Taranto vào năm 1940. Sự kiện này đã được tận dụng triệt để nhằm lên kế
hoạch cho cuộc tấn công vào căn cứ hải quân Hoa Kỳ ở Trân Châu Cảng. Sau
khi Nhật Bản xâm chiếm Đông Dương, Hoa Kỳ đã cấm xuất khẩu dầu mỏ sang
Nhật ,Tổng thống Franklin D. Roosevelt trước đó đã điều Hạm đội Thái
Bình Dương đến Hawaii và yêu cầu xây dựng một lực lượng quân sự tại
Philippines với hy vọng có thể làm nản lòng Nhật Bản trong việc tiếp tục
xâm chiếm miền Viễn Đông. Như giới lãnh đạo quân sự tối cao Nhật nhận
định (một cách nhầm lẫn rằng mọi hành động chống lại các thuộc địa Anh
Quốc ở Đông Nam Á sẽ thúc đẩy Hoa Kỳ can dự vào chiến tranh, một cú tấn
công phủ đầu được xem như là giải pháp duy nhất để Nhật Bản tránh được
sự can thiệp của Hải quân Hoa Kỳ. Nhật Bản cũng cân nhắc đến việc xâm
lược Philippines và cho đó là cần thiết trong kế hoạch chiến tranh của
Nhật; trong khi về phía Hoa Kỳ, việc chiếm lại quần đảo này đã được quy
định trong Kế hoạch Cam trong những năm giữa hai cuộc thế chiến.Nhật Bản
và Hoa Kỳ đều nhận thức được nguy cơ chiến tranh (và đều xây dựng các
kế hoạch chuẩn bị điều này) ngay từ những năm 1920, cho dù sự căng thẳng
trong mối quan hệ chưa thực sự bắt đầu leo thang đến tận khi Nhật Bản
xâm chiếm Mãn Châu năm 1931. Trong thập niên tiếp theo, Nhật Bản tiếp
tục bành trướng vào Trung Quốc, dẫn đến cuộc Chiến tranh Trung Nhật vào
năm 1937. Đến năm 1940, Nhật Bản tiến hành xâm chiếm Đông Dương nhằm
ngăn chặn các con đường tiếp tế đến được Trung Quốc, đồng thời cũng là
một bước đi đến việc sở hữu các nguồn tài nguyên ở Đông Nam Á. Hành động
này khiến Hoa Kỳ ra lệnh cấm xuất khẩu dầu mỏ sang Nhật Bản, buộc Nhật
Bản phải khởi động kế hoạch chiếm hữu việc sản xuất xăng dầu tại Đông
Ấn. Hơn nữa, việc chuyển Hạm đội Thái Bình Dương từ căn cứ trước đây ở
San Diego đến các căn cứ mới ở Trân Châu Cảng được giới quân sự Nhật Bản
xem là Hoa Kỳ đang chuẩn bị cho một cuộc đối đầu tiềm tàng giữa hai
quốc gia.
Trân Châu Cảng vào ngày 3 tháng 10 năm 1941.
Kế hoạch sơ thảo cho một cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng nhằm bảo vệ
cuộc tiến quân vào "Khu vực Tài nguyên phía Nam" (tên mà phía Nhật đặt
cho khu vực Đông Ấn và Đông Nam Á nói chung) được bắt đầu ngay từ đầu
năm 1941, dưới sự đỡ đầu của Đô đốc Yamamoto, lúc đó đang là Tư lệnh của
Hạm đội Liên hợp Nhật Bản.. Ông giành được sự ủng hộ chính thức của Bộ
Tổng tham mưu Hải quân Đế quốc Nhật Bản để vạch kế hoạch và huấn luyện
cho cuộc tấn công sau nhiều cuộc tranh luận căng thẳng với Bộ chỉ huy
Hải quân; ông thậm chí đã đe dọa từ chức Trong những tháng tiếp theo
sau, phi công được huấn luyện, trang bị được cải tiến và thông tin tình
báo được thu thập. Cho dù có những sự chuẩn bị như vậy, kế hoạch tấn
công chỉ được Thiên hoàng Chiêu Hòa phê chuẩn chính thức vào ngày 5
tháng 11, sau ba trong tổng số bốn cuộc họp Hội nghị Hoàng gia để xem
xét vấn đề.. Nhật Hoàng chỉ đưa ra lời cho phép cuối cùng vào ngày 1
tháng 12, sau khi phần lớn các nhà lãnh đạo Nhật thuyết phục với ông
rằng bản "ghi chú của HuL có thể "phá hủy thành quả của các sự kiện tại
Trung Quốc, đe dọa Mãn Châu Quốc và hạ thấp khả năng kiểm soát Triều
Tiên của Nhật Bản. Đến cuối năm 1941, các căn cứ và cơ sở quân sự Hoa Kỳ
tại Thái Bình Dương đã nhiều lần bị đặt trong tình trạng báo động, và
xung đột giữa Hoa Kỳ và Nhật là điều mà nhiều quan sát viên nghĩ đến.
Tuy nhiên, các quan chức Hoa Kỳ đã hoài nghi việc Trân Châu Cảng sẽ trở
thành mục tiêu đầu tiên trong một cuộc chiến tranh với Nhật. Họ cho là
Philippines sẽ bị tấn công trước tiên do mối đe dọa mà nó đặt ra cho các
con đường vận chuyển trên biển về phía Nam, và do niềm tin sai lầm rằng
Nhật không có khả năng tung ra hai chiến dịch tấn công hải quân chủ lực
cùng một lúc.Hiện đang nổi lên một cuộc tranh luận cho rằng một số
thành viên trong nội các của Roosevelt đã biết trước về cuộc tấn công
của Nhật và đã lờ đi nhằm tìm kiếm sự hỗ trợ từ phía công chúng và Quốc
hội trong việc cho phép Hoa Kỳ tham chiến cùng các đồng minh hay không.
III- VỊ TRÍ CHIẾN LƯỢC CỦA TRÂN CHÂU CẢNG :
Quần đảo Hawaii của Hoa Kỳ ở giữa Thái Bình Dương là một chuỗi đảo dài
nối tiếp nhau theo hướng từ Tây-tây Bắc sang Đông-đông Nam có diện tích
tổng cộng gần 17.000 km² với khoảng nửa triệu người (ở thập kỉ 40). Lớn
nhất là đảo Hawaii (trên 10.000 km²) nằm ở cực trong quần đảo, nhưng
quan trọng nhất lại là đảo Oahu với diện tích khoảng 1500 km², nằm cách
Hawaii khoảng 140 dặm về phía Tây Bắc. Trên bờ biển phía Nam đảo Oahu có
thành phố Honolulu (200.000 dân), thủ phủ của cả quần đảo. Cũng trên bờ
biển phía Nam đảo, cách Honolulu về phía Tây chừng 6 dặm là Trân Châu
Cảng, căn cứ chính của hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ (kể từ năm 1940).
Dựng trên một vịnh biển ăn sâu vào đất liền của đảo rồi chia thành nhiều
vụng biển và luồng lạch kín đáo lại có một cù lao ở giữa vịnh được gọi
là "đảo Ford” như một cầu tàu thiên nhiên. Trân Châu Cảng có điều kiện
tự nhiên lí tưởng để bảo vệ hạm đội chống lại mọi sự tấn công từ bên
ngoài. Việc bố phòng ở cảng hết sức cẩn mật với một hệ thống lưới thép
đặc biệt chống ngư lôi và tàu ngầm. Ngoài Trân Châu Cảng ra, hạm đội còn
một căn cứ khác là cảng Lahaina trên đảo Maui, một đảo nằm ở khoảng
giữa Oahu và Hawaii. Nằm ở tọa độ 21°20′38″ Bắc, 157°58′30″ Tây trên đảo
Oahu, hòn đảo lớn thứ ba của nhóm đảo phía Tây quần đảo Hawaii, Trân
Châu Cảng có vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng đối với toàn bộ vùng
Bắc Thái Bình Duơng. Với khoảng cách tương ứng với một tầm bay tối đa
của các "pháo đài bay" B-17 từ Oahu đến bờ biển phía Tây Hoa Kỳ, Trân
Châu Cảng có thể trở thành căn cứ triển khai các hoạt động của không
quân oanh tạc ở Tây Thái Bình Dương. Vai trò vị trí của Trân Châu Cảng
đối với hải quân còn quan trọng hơn. Do vị trí gần như ở giữa vùng Bắc
Thái Bình Dương, Trân Châu Cảng vừa là căn cứ chỉ huy, căn cứ hậu cần,
là cơ sở bảo duỡng, sửa chữa các chiến hạm của hạm đội Thái Bình Dương.
Từ căn cứ này, Hạm đội Thái Bình Dương của Hải quân Hoa Kỳ có thể tung
sức mạnh của họ khống chế toàn bộ vùng Bắc Thái Bình Dương bằng các lực
lượng tàu nổi, tàu ngầm và không quân của Hạm đội. Nếu như đối với Hoa
Kỳ, Trân Châu Cảng và Midway là hai bàn đạp quan trọng nối tiếp nhau để
vươn sang lục địa Châu Á thì đối với Nhật Bản, Trân Châu Cảng là bàn đạp
để tiến đến Hoa Kỳ và toàn bộ lục địa Bắc Mỹ. Tuy nhiên, vào những năm
1941-1942, lục quân và hải quân Nhật Bản không có tham vọng đánh chiếm
hoàn toàn quần đảo này như họ đã làm với quần đảo Midway. Với trận tấn
công Trân Trâu Cảng, Nhật Bản chỉ đủ sức làm tê liệt Hạm đội Thái Bình
Dương của Hoa Kỳ trong một khoảng thời gian vừa đủ để họ có thể rảnh tay
đánh chiếm toàn bộ vùng bờ biển và các quần đảo Tây Thái Bình Duơng, uy
hiếp Ấn Độ và Australia, đẩy lùi ảnh hưởng của Hoa Kỳ khỏi Châu Á, chia
đôi Thái Bình Dương với Hoa Kỳ trong một thế cân bằng chiến lược mới ở
đại dương rộng nhất thế giới này, tiến tới hiện thực hóa học thuyết "Đại
Đông Á".
IV- MỤC TIÊU CUỘC CHIẾN :
Cuộc tấn công có nhiều mục đích chính. Trước tiên, người Nhật hi vọng nó
sẽ tiêu diệt các đơn vị của hạm đội Hoa Kỳ, và do đó ngăn cản hạm đội
Thái Bình Dương can thiệp vào việc Nhật chinh phục Đông Ấn. Kế tiếp, đó
là cách người Nhật tranh thủ thời gian để củng cố vị thế của họ và tăng
cường sức mạnh hải quân, trước khi các tàu chiến mới của Hoa Kỳ được chế
tạo theo Đạo luật Vinson-Walsh sẽ xóa tan mọi cơ hội chiến thắng. Cuối
cùng, nó được trù tính sẽ là một đòn mạnh giáng vào tinh thần của người
Mỹ, có thể gây nản lòng, cho phép Nhật tiếp tục chinh phục Đông Nam Á mà
không bị can thiệp Đặt mục tiêu chính vào những chiếc thiết giáp hạm là
một cách đánh vào tinh thần, vì chúng là niềm tự hào của mọi lực lượng
hải quân vào thời điểm đó. Vì các ý tưởng chiến lược và văn kiện quân sự
của cả hai phía Nhật Bản và Hoa Kỳ đều xuất phát từ công trình của
Thuyền trưởng Alfred Mahan, vốn cho rằng những chiếc thiết giáp hạm có
vai trò quyết định trong các trận hải chiến. Nó cũng là cách đánh vào
sức mạnh tác chiến của Hạm đội Thái Bình Dương; và nếu như thành công,
điều đó sẽ trì hoãn, nếu không thể ngăn ngừa vĩnh viễn, trận chiến Thái
Bình Dương tổng lực ("trận đánh quyết định", theo suy nghĩ của Hải quân
Nhật), một cuộc chiến chắc chắn là cuộc đối đầu giữa các thiết giáp hạm.
Với những suy nghĩ ấy, Yamamoto dự định phải tìm kiếm và tấn công Hạm
đội Thái Bình Dương "bất cứ nơi nào có thể tìm gặp tại Thái Bình Dương..
Ngày 14 tháng 11 năm 1941, cuộc diễn tập trên sa đồ đã đưa ra giả định
lực lượng phòng thủ khi được báo động sẽ có thể đánh chìm hai tàu sân
bay của Nhật và làm hư hại thêm hai chiếc nữa, ngay cả khi có thời tiết
thuận lợi; đó là tất cả sức mạnh mà Bộ Tổng tham mưu Hải quân Nhật dự
định tung ra cho chiến dịch này. Dù sao, Yamamoto vẫn ra lệnh tiếp tục
tiến hành. Phía Nhật Bản đã quá tin tưởng vào khả năng đạt được thắng
lợi nhanh chóng trong Thế Chiến Thứ Hai, và do đó đã bỏ qua các mục tiêu
khác trong cảng, đặc biệt là các xưởng tàu hải quân, kho chứa dầu và
căn cứ tàu ngầm, vì tin rằng chiến tranh sẽ kết thúc trước khi các cơ sở
đó có thể phát huy tác dụng.
V - LỰC LƯỢNG CỦA HẢI QUÂN NHẬT
Không lực Hải quân của các tàu sân bay Nhật Bản tham gia vào các cuộc
tấn công Trân Châu Cảng sử dụng ba loại máy bay chủ yếu, thường được
biết đến với tên mã cho chúng trong Hải quân Hoa Kỳ: máy bay tiêm kích
Mitsubishi A6M Kiểu 11 ("Zero"), máy bay phóng ngư lôi Nakajima B5N Kiểu
97 ("Kate") và máy bay ném bom bổ nhào Aichi D3A Kiểu 99 ("Val"). Đặc
điểm của các phương tiện này như sau: Máy bay chiến đấu Mitsubishi A6M
kiểu 11 ("Zero") do một phi công điều khiển; tốc độ tối đa 545 km/giờ;
tầm hoạt động tối đa 1.870 km; được trang bị một súng máy 20 mm và hai
bom 60 kg dưới cánh. Tổng số lần xuất kích trong trận đánh: 10 đợt từ
các tàu sân bay Agaki, Kaga, Sōryū, Hiryū, Shōkaku và Zuikaku với 78
chiếc. Máy bay ném bom bổ nhào Aichi D3A kiểu 99 ("Val") do hai phi công
điều khiển; tốc độ tối đa 450 km/giờ; tầm hoạt động tối đa 1.400 km;
đuợc trang bị một bom 250 kg dưới thân và hai bom 60 kg dưới cánh. Tổng
số lần xuất kích trong trận đánh: 6 đợt từ các tàu sân bay Agaki, Kaga,
Sōryū, Hiryū, Shōkaku và Zuikaku với 129 chiếc. Máy bay phóng ngư lôi
Nakajima B5N kiểu 97 ("Kate") do hai đến ba phi công điều khiển; tốc độ
tối đa 360 km/giờ; tầm hoạt động tối đa 1.100 km; được trang bị một ngư
lôi MK-91 457 mm hoặc một quả bom 800 kg dưới thân. Tổng số lần xuất
kích trong trận đánh: 11 đợt từ các tàu sân bay Agaki, Kaga, Sōryū,
Hiryū, Shōkaku và Zuikaku với 143 chiếc, trong đó có 49 chiếc mang bom
800 kg và 94 chiếc mang ngư lôi MK-91.Các tàu sân bay được hộ tống bởi
một hạm đội tàu nổi mạnh gồm các thiết giáp hạm nhanh Hiei và Kirishima,
tàu tuần dương hạng nặng Chikuma, 9 tàu khu trục. Soái hạm của hạm đội
Nhật Bản là chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ Nagara Phân hạm đội liên hợp
số 1 của đế quốc Nhật Bản chịu trách nhiệm tấn công Trân Châu Cảng do đô
đốc Nagumo Chūichi chỉ huy, có 2 tàu sân bay Akagi và Kaga với sự phân
công nhiệm vụ như sau
Tàu sân bay Shōkaku
Tàu sân bay Shōkaku do hạm trưởng Jojima Takatsugu chỉ huy, Wada
Tetsujiro chỉ huy không quân đuợc giao nhiệm vụ tấn công căn cứ không
quân Hickam, sân bay Kane'ohe và các trận địa cao xạ. Trong biên chế có:
Liên đội hỗn hợp ném bom - phóng lôi có 27 chiếc Nakajima B5N do trung
úy Tatsuo Ichihara chỉ huy gồm phi đội 1 của trung úy Tatsuo Ichihara,
phi đội 2 của trung úy Tsutomu Hagiwara và phi đội 3 của trung úy
Yoshiaki Ikuin Liên đội ném bom do có 27 chiếc Aichi D3A do trung tá
Takahashi Kakuichi chỉ huy gồm phi đội 1 của trung tá Takahashi
Kakuichi, phi đội 2 của trung úy Masao Yamaguchi và phi đội 3 của trung
úy Hisayoshi Fujita. Liên đội tiêm kích đánh chặn có 5 chiếc A6M Zero do
trung úy Tadashi Kaneko chỉ huy, liên đội này có 9 chiếc A6M Zero trong
lực luợng dự trữ.
Tàu sân bay Zuikaku
Tàu sân bay Zuikaku do hạm trưởng Yokokawa Ichibei chỉ huy, Shimoda
Hisao chỉ huy không quân, được giao nhiệm vụ tấn công căn cứ không quân
Hickam, sân bay Kane'ohe và các trận địa cao xạ. Trong biên chế có: Liên
đội hỗn hợp ném bom - phóng lôi có 27 chiếc Nakajima B5N do trung tá
Shigekazu Shimazaki chỉ huy gồm phi đội 1 của Shigekazu Shimazaki, phi
đội 2 của trung úy Takemi Iwami và phi đội 3 của trung úy Yoshiaki
Tsubota. Liên đội ném bom có 27 chiếc Aichi D3A do trung tá Sakamoto
Akira chỉ huy gồm phi đội 1 của Sakamoto Akira, phi đội 2 của trung úy
Tomatsu Ema và phi đội 3 của trung úy Hayashi. Liên đội tiêm kích đánh
chặn có 6 chiếc A6M Zero do trung úy Masao Sato chỉ huy và 9 chiếc trong
lực lượng dự trữ.
Tàu khu trục Akigumo thuộc lớp Yugumo hoạt động độc lập. Phân hạm đội
thiết giáp hạm số 3 do phó đô đốc Gunichi Mikawa chỉ huy gồm hai thiết
giáp hạm Hiei và Kirishima Phân hạm đội tuần dương số 8 do đô đốc
Hiroaki Abe chỉ huy gồm các tuần dương hạm Tone và Chikuma. Phân hạm đội
khu trục số 1 do phó đô đốc Sentarō Ōmori chỉ huy chỉ có khu trục hạm Abukuma
thuộc lớp Nagara.Phân hạm đội khu trục số 17' gồm các tàu khu trục
Urakaze, Isokaze, Tanikaze và Hamakaze đều thuộc lớp Kagerō.Phân hạm đội
khu trục số 18' gồm các tàu khu trục Kagerō và Shiranuhi thuộc lớp
Kagerō, các tàu khu trục Arare và Kasumi thuộc lớp Asashio Đơn vị khu
trục Midway do hạm trưởng Ohishi Kaname gồm các tàu khu trục Akebono (1930) và Ushio (1930) đều thuộc lớp Fubuki.
Phân hạm đội tàu ngầm số 2 do hạm trưởng Imaizumi Kijiro chỉ huy gồm tàu ngầm I-10 thuộc lớp Kiểu A, các tàu ngầm I-21 và I-23
thuộc phân lớp I-15, Kiểu B1.Đoàn tàu vận tải số 1 gồm tàu chở dầu
Kyokuto Maru, các tàu vận tải Kenyo Maru, Kokuyo Maru, Shinkiku Maru và
Akebono Maru. Đoàn tàu vận tải số 2 gồm tàu chở dầu Tōhō Maru, các tàu
vận tải Toei Maru và Nippon Maru.Hạm đội tàu ngầm số 6 do phó đô đốc
Shimizu Mitsumi chỉ huy trong biên chế có: Phân hạm đội tàu ngầm số 1 do
phó đô đốc Sato Tsutomu chỉ huy gồm tàu ngầm I-9 thuộc lớp I-9, kiểu A1, các tàu ngầm I-15, I-17 và I-25 đều thuộc lớp I-15 kiểu B1. Phân hạm đội tàu ngầm số 2 do phó đô đốc Yamazaki Shigeaki chỉ huy gồm tàu ngầm I-7 thuộc lớp I-7, kiểu J3, các tàu ngầm I-1, I-2, I-3, I-4 đều thuộc lớp I-1, kiểu J1, tàu ngầm I-5 thuộc lớp I-5, kiểu J1M và tàu ngầm I-6 thuộc lớp I-6, kiểu J2. Phân hạm đội tàu ngầm số 3 do đô đốc Shigeyoshi Miwa chỉ huy gồm các tàu ngầm I-8 lớp I-7 kiểu J3, I-68, I-69, I-70, I-71, I-72, I-73 đều thuộc lớp I-68 kiểu KD6A, các tàu ngầm I-74 và I-75
thuộc lớp I-74 kiểu KD6B. Phân hạm công kích đặc biệt do hạm truởng
Sasaki Hanku chỉ huy tàu ngầm "mẹ" gồm các tàu ngầm "bỏ túi" I-22 và
I-22A do thuyền trưởng Naoji Iwasa chỉ huy, I-16 do thuyền truởng
Hiroshi Hanabusa chỉ huy, I-16A, I-18, I-18A, I-20, I-20A, I-21 và
I-21A. Đơn vị tàu ngầm trinh sát do hạm trưởng Kashihara Yasuchika chỉ
huy gồm các tàu ngầm I-10 và I-26 do Minoru Yokota chỉ huy.
V - LỰC LƯỢNG CỦA HẢI QUÂN HOA KỲ
Hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ thực sự là hạm đội mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ với khoảng 170 hạm tàu các loại
Tư lệnh hải quân Hoa Kỳ, Đô đốc Harold Rainsford Stark. Chỉ huy hạm đội
Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương, Đô đốc Husband Edward Kimmel. Lực luợng đặc
nhiệm số 1 do Phó Đô đốc William Satterlee Pye chỉ huy, trong biên chế
có: Hạm đội thiết giáp do Chuẩn Đô đốc Walter Stratton Anderson chỉ huy,
gồm các đơn vị: Hải đoàn 1 do Chuẩn Đô đốc Issac C. Kidd chỉ huy gồm
các chiến hạm USS Nevada (BB-36) của hạm trưởng Francis W. Scanland, USS
Pennsylvania (BB-38) của hạm truởng Charles M. "Saavy" Cooke, Jr. và
USS Arizona (BB-39) của hạm trưởng Franklin Van Valkenburgh Hải đoàn 2
gồm các chiến hạm USS Oklahoma (BB-37) của hạm truởng Howard D. "Ping"
Bode, USS Tennessee (BB-43) và USS California (BB-44) của hạm truởng
Joel W. Bunkley. Hải đoàn 4 do Chuẩn Đô đốc Walter S. Anderson chỉ huy
gồm các chiến hạm USS Maryland (BB-46) của hạm trưởng D. C. Godwin và
USS West Virginia (BB-48) của hạm truởng Mervyn Sharp Bennion. Hạm đội
tuần dương do Chuẩn Đô đốc H. Fairfax Leary chỉ huy, gồm các đơn vị: Hải
đoàn tuần dương số 6 gồm các tàu tuần dương USS New Orleans (CA-32) và
USS San Francisco (CA-38) Hải đoàn tuần dương số 9 do đích thân Chuẩn Đô
đốc H. Fairfax Leary chỉ huy gồm các tuần dương hạm USS Phoenix
(CL-46), USS Honolulu (CL-48), USS Helena (CL-50) và USS St. Louis
(CL-49) của hạm trưởng George A. Rood Hạm đội khu trục do Chuẩn Đô đốc
Milo F. Draemel chỉ huy gồm các đơn vị: Phân hạm đội khu trục 1 gồm các
tàu khu trục USS Raleigh .Hải đoàn khu trục số 1 gồm các tàu khu trục
Hải đoàn khu trục số 2 gồm các tàu khu trục Tiểu hạm đội 3 chỉ có tàu
khu trục USS Selfridge (DD-357) Hải đoàn khu trục số 5 gồm các tàu khu trục. Phân hạm hạm đội khu trục 2 gồm các tàu USS Detroit (CL- (DD-391), USS Patterson (DD-392), USS Jarvis (DD-393) Các tàu khu trục độc lập USS Allen (DD-66), USS Schley (DD-103), USS Chew (DD-106), USS Ward (DD-139) Các tàu ngầm USS Narwhal (SS-167), USS Dolphin (SS-169), USS Cachalot (SS-170), USS Tautog (SS-199). Tàu rải mìn USS Oglala (CM-4). Các tàu quét mìn USS Turkey (AM-13), USS Bobolink (AM-20), USS Rail (AM-26), USS Tern (AM-31), USS Grebe (AM-43), USS Vireo (AM-52). Các tàu quét mìn ven bờ USS Cockatoo (AMc-8), USS Crossbill (AMc-9), USS Condor (AMc-14), USS Reedbird (AMc-30). Các tàu khu trục rải mìn USS Gamble (DM-15), USS Ramsay (DM-16), USS Montgomery (DM-17), USS Breese (DM-18), USS Tracy (DM-19), USS Preble (DM-20), USS Sicard (DM-21), USS Pruitt (DM-22). Các tàu khu trục quét mìn, USS Perry (DMS-17 Pháo hạm tuần tra USS Sacramento (PG-19)Các tàu khu trục hạng nhẹ USS Dobbin (AD-3) và USS Whitney (AD-4)Các tàu chở thủy phi cơ Các tàu chở thủy phi cơ loại nhỏCác tàu chở thủy phi cơ được cải biến từ tàu khu trục Tàu chở đạn USS Pyro (AE-1)Các
tàu chở dầu Các tàu công xưởng.Tàu ngầm loại nhẹ Tàu ngầm cứu hộ ,Tàu
bệnh viện Tàu chở hàng Các tàu cung cấp Các tàu kéo.Các tàu hỗ trợ
Bảo vệ hạm đội và toàn bộ quần đảo, có một lực lượng lục quân gồm 43.000
binh lính và sĩ quan, trong đó 35.000 đóng tại Oahu. Lực lượng này được
trang bị các vũ khí rất hiện đại.[ Trên đảo Oahu có 5 sân bay, quan
trọng nhất là sân bay Hickam ở ngay gần Trân Châu Cảng và sân bay
Wheeler ở phía Bắc đảo. Vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, trên đảo có tất cả
233 máy bay quân sự của Lục quân, trong đó 150 chiến đấu cơ, 35 pháo
đài bay hiện đại B17, còn lại là các máy bay ném bom khác. Với lực lượng
nói trên, tướng Walter Short, tư lệnh Lục quân tại đảo Hawaii (từ tháng
2 năm 1941) vẫn cho rằng ông thiếu phương tiện phòng thủ, đặc biệt là
những vũ khí để giáng trả những cuộc tấn công bằng không quân của kẻ
địch. Có 81 chiếc thủy phi cơ Catalina và bổ sung thêm 6 chiếc B17 làm
nhiệm vụ trinh sát cho toàn quần đảo, đô đốc Kimmel cũng tho rằng ông
không đủ khả năng thường xuyên thám sát từ xa toàn bộ vùng biển xung
quanh quần đảo. Bởi thế, ông chỉ chú trọng tuần tra vùng biển phía Nam,
nơi gần quần đảo Marshall của Nhật.
Đã nhiều lần, Short đề nghị bổ sung những phương tiện còn thiếu, nhưng
các thượng cấp không tán thành, vì họ không cùng quan điểm với ông.
VI- TRẬN ĐÁNH QUYẾT ĐỊNH :
Ngày 26 tháng 11 năm 1941, một lực lượng đặc nhiệm Nhật Bản (Kido Butai,
hay là Lực lượng Tấn công) gồm sáu tàu sân bay hạm đội cùng một số tàu
hộ tống và tàu chở dầu tiếp nhiên liệu, dưới quyền chỉ huy của Phó Đô
đốc Chuichi Nagumo đã lên đường rời miền Bắc Nhật Bản đi đến một địa
điểm ở phía Tây Bắc Hawaii, dự định sẽ tung số máy bay trên đó, 405
chiếc, để tấn công vào Trân Châu Cảng. Cuộc tấn công dự định được chia
làm hai đợt với 360 chiếc dành cho hai đợt tấn công, và 48 máy bay làm
nhiệm vụ phòng thủ tuần tra chiến đấu trên không (CAP), kể cả chín chiếc
của đợt thứ nhất quay về.
Đợt thứ nhất sẽ là đòn tấn công chủ lực, trong khi đợt thứ hai sẽ hoàn
tất những công việc còn sót lại. Đợt thứ nhất mang theo phần lớn vũ khí,
chủ yếu là ngư lôi, để tấn công các tàu chủ lực. Các phi công được lệnh
phải chọn những mục tiêu có giá trị cao nhất có mặt tại Trân Châu Cảng
để tấn công. Máy bay ném bom bổ nhào dùng để tấn công các mục tiêu trên
mặt đất. Trong khi đó, Máy bay tiêm kích được yêu cầu phải bắn phá các
sân bay và tiêu diệt số máy bay đậu trên mặt đất càng nhiều càng tốt
nhằm đảm bảo chúng không thể cất cánh để phản công lại các máy bay ném
bom, đặc biệt là trong đợt đầu tiên. Khi những máy bay tiêm kích bị cạn
nhiên liệu, chúng sẽ được tiếp thêm nhiên liệu từ các tàu sân bay rồi
quay trở lại chiến đấu. Những máy bay tiêm kích sẽ làm nhiệm vụ tuần tra
chiến đấu trên không ở nơi cần thiết, đặc biệt là bên trên các sân bay
Hoa Kỳ.
Để bảo đảm bí mật, đoàn tàu được lệnh đánh chìm mọi tầu bè của các nước
trung lập mà nó gặp. Nếu gặp tàu Mỹ trước ngày 6 tháng 12 thì hủy bỏ
cuộc hành quân quay trở về; trong ngày 6 thì tùy theo tình hình mà có
quyết định thích hợp; còn trong ngày 7 thì tấn công tiêu diệt trong bất
cứ tình huống nào. May mắn thay, đúng như kế hoạch đã dự tính, trong
suốt cuộc hành hình hơn 10 ngày, "Kido Butai" không gặp một tàu bè nào
khác trên đường đi. Trong khi đó, mỗi ngày nó đều nhận được những tin
tức tình báo về tình hình Trân Châu Cảng và những chỉ thị cần thiết của
Tư lệnh chiến dịch do đô đốc Isoroku Yamamoto phát đi từ hạm đội Liên
hợp đang thả neo trong vịnh Hashirajima thuộc biển Nội Hải (Nhật Bản).
Những tin tình báo ấy do tòa Tổng lãnh sự Nhật ở Honolulu điện về cho đô
dốc Yamamoto theo những giờ quy định.
Sáng 6 tháng 12, khi đoàn tàu còn cách đảo Oahu 600 dặm về phía Bắc-tây
Bắc, phó đô đốc Nagumo đã được đô đốc Yamamoto thông báo về chỉ thị của
Thiên hoàng quyết định tiến hành chiến tranh với Hoa Kỳ. Đoàn tàu được
tiếp nhiên liệu lần cuối cùng, các tàu chở dầu quay trở lại còn "Kido
Butai" chuyển sang hướng Nam-Đông Nam, tăng tốc độ để tiến đến mục tiêu.
Buổi trưa, đô đốc Yamamoto lại thông báo cho Nagumo rằng tại Trân Châu
Cảng không có tàu sân bay Mĩ. Tin ấy làm cho trung tá Minoru Genda và
một số nhân vật quan trọng khác của "Kido Butai" có phần thất vọng,
nhưng nó không được Nagumo quan tâm vì ông vẫn luôn cho rằng các thiết
giáp hạm mới là lực lượng chủ yếu của hải quân. Trước khi cuộc tấn công
được thực hiện, hai máy bay trinh sát được phóng lên từ các tàu tuần
dương để thám sát bên trên Oahu và báo cáo về thành phần và vị trí của
hạm đội đối phương. Bốn chiếc máy bay thám sát khác sẽ tuần tra trong
khu vực giữa Kido Butai và Niihau nhằm ngăn ngừa lực lượng đặc nhiệm
khỏi bị phản công bất ngờ. Theo kế hoạch máy bay của hạm đội sẽ tiến
công Trân Châu Cảng trước lúc rạng đông nhưng nhiều phi công đã than
phiền về nguy cơ có thể gặp khi họ phải cất cánh lúc đêm tối. Bởi thế
Genda cùng Bộ chỉ huy hạm đội đã quyết định lùi thời hạn xuất phát lại
hai tiếng đồng hồ vào thời điểm mà họ cho là rất thuận lợi vì người Mỹ
hết sức lơ là mất cảnh giác
Trong khi đó, về phía Hoa Kỳ, ngày 26 tháng 11, vài giờ sau khi Lực
lượng đặc nhiệm Z của Nhật rời khỏi vịnh Hitokapu, trung tá Wilfred
Holmes, người chịu trách nhiệm theo dõi hoạt động của các chiến hạm Nhật
đã mật báo về phòng tình báo hải quân Trân Châu Cảng rằng 6 tàu sân bay
Nhật "vẫn còn ở trong nước". Nhưng kể từ lúc đó, ông ta hoàn toàn bị
mất dấu vết của chúng, và các ngày sau đó đều báo cáo rằng "không có tin
tức gì". Bằng giọng khôi hài, đô đốc Kimmel đã trách trưởng phòng tình
báo của ông là trung tá Eward Layton:"Anh nghĩ sao, nếu như trong giờ
phút này chúng xuất hiện ngay trên trước Đồi kim cương, còn anh thì
không biết gì về chúng ? Tuy vậy, Kimmel vẫn không có biện pháp nào để
đề phòng các tàu sân bay mất tích này.
Các tàu ngầm hạm đội của Nhật Bản mỗi chiếc mang theo một tàu ngầm con
Kiểu A để chở đến vùng biển ngoài khơi Oahu. Năm chiếc tàu ngầm này rời
Căn cứ hải quân Kure vào ngày 25 tháng 11 năm 1941 đi đến một vị trí
cách lối vào Trân Châu Cảng 19 km (10 hải lý) rồi tung các tàu ngầm con
ra lúc khoảng 01 giờ 00giờ Hawaii sáng sớm ngày 7 tháng 12 Lúc 03 giờ 42
phút, chiếc tàu quét mìn USS Condor phát hiện kính tiềm vọng của một
chiếc tàu ngầm bỏ túi ở phía Đông Nam của phao dẫn vào cảng và đã báo
động cho chiếc tàu khu trục US Ward. Con tàu ngầm bỏ túi này có thể đã
lọt vào Trân Châu Cảng, nhưng Ward đã đánh chìm được một chiếc khác vào
lúc 06 giờ 37 phút, đó là phát súng đầu tiên của Hoa Kỳ trong Thế chiến
thứ hai. Một chiếc tàu ngầm con khác ở phía Bắc đảo Ford đã bắn trượt
tàu Curtiss với quả ngư lôi đầu tiên của nó rồi lại bắn trượt tàu khu
trục Monaghan với quả ngư lôi còn lại trước khi bị Monaghan đánh chìm
lúc 08 giờ 43 phút.
Chiếc tàu ngầm con thứ ba bị mắc cạn hai lần, một lần bên ngoài lối vào
cảng và một lần nữa ở phía Đông của Oahu, nơi nó bị bắt giữ vào ngày 8
tháng 12 Thiếu úy Kazuo Sakamaki
rời khỏi nó bơi lên bờ và trở thành tù binh chiến tranh người Nhật Bản
đầu tiên trong Chiến tranh Thái Bình Dương Chiếc thứ tư bị hư hại bởi
cuộc tấn công bằng mìn sâu khiến thủy thủ đoàn phải bỏ tàu khi chưa bắn
được quả ngư lôi nào. Viện Hải quân Hoa Kỳ vào năm 1999, sau khi đã tiến
hành một cuộc phân tích các bức ảnh chụp cuộc tấn công, cho biết một
tàu ngầm bỏ túi có thể đã bắn trúng một ngư lôi vào chiếc thiết giáp hạm
USS West Virginia. Lực lượng Nhật Bản nhận được một liên lạc vô tuyến
từ một tàu ngầm bỏ túi lúc 00 giờ 41 phút ngày 8 tháng 12 báo cáo đã gây
hư hại cho một tàu chiến lớn bên trong Trân Châu Cảng. Số phận của
chiếc cuối cùng này cho đến nay vẫn chưa được xác định
Dù cuộc tấn công trên thực tế đã xảy ra trước khi có một lời tuyên chiến
chính thức của Nhật Bản, Đô đốc Yamamoto ban đầu đã quy định rằng cuộc
tấn công chỉ được thực hiện 30 phút sau khi Nhật Bản thông báo cho Hoa
Kỳ rằng họ muốn chấm dứt các cuộc đàm phán về hòa bình. Bằng cách này,
người Nhật cố gắng đồng thời duy trì các quy ước về chiến tranh trong
khi vẫn đạt được yếu tố bất ngờ. Cho dù có những dự định như thế, cuộc
tấn công đã được khởi sự trước khi bản thông điệp dài 5.000 từ này được
chuyển giao. Tokyo truyền bức thông điệp đến Tòa đại sứ Nhật Bản (chia
thành hai phần), mà cuối cùng thời gian truyền quá lâu để có thể kịp
trao cho Hoa Kỳ đúng lúc, trong khi các chuyên viên mật mã Hoa Kỳ đã
giải mã và dịch xong phần lớn bức thông điệp nhiều giờ trước khi Đại sứ
Nhật Bản dự định trao bức thông điệp đó. Tuy được xem là một lời tuyên
chiến, “bức thông điệp không hề tuyên bố chiến tranh hay ảnh hưởng đến
quan hệ ngoại giao hai nước" Việc tuyên chiến chính thức chỉ được đăng
tải trên trang đầu của các tờ nhật báo Nhật Bản trong số phát hành buổi
chiều tối ngày 8 tháng 12
A- ĐỢT TẤN CÔNG THỨ NHẤT :
Rạng ngày 7, Nagumo ra lệnh chuyển đội hình hành quân thành đội hình
chiến đấu. Đúng 3 giờ 30 lệnh báo thức phát ra, tất cả thành viên của
"Kido Butai”, chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu. Đó là lúc đoàn tàu đã đến địa
điểm quy định và thả neo ở vị trí này, cách Trân Châu Cảng hơn 200 dặm
về phía Bắc. Mặc dù đã được thông báo chính thức rằng hạm đội Thái Bình
Dương của Mỹ hiện đang tập trung ở Trân Châu Cảng, Nagumo vẫn quyết định
kiểm tra lại một lần nữa. Lúc 5 giờ 30, ông ra lệnh cho 4 máy bay trinh
sát bay đi quan sát: 2 chiếc đến Trân Châu Cảng, 2 chiếc kia đến cảng
Lahaina trên đảo Maui.
Dưới ánh sáng mờ nhạt của buổi bình minh, sóng biển vỗ mạnh, tàu nghiêng
hơn 12 độ. Thông thường nếu tàu nghiêng hơn 5 độ, máy bay không được
cất cánh. Nhưng hôm nay quy định này đã bị bỏ qua. Đúng 6 giờ, tham mưu
trưởng Lực lượng đặc nhiệm là phó đô đốc Kusaka hạ lệnh kéo lên lá cờ có
chữ Z trên tàu sân bay - kì hạm Akagi để làm hiệu lệnh chiến đấu. Đó là
lá cờ mà đô đốc Togo đã dùng trong trận hải chiến Tsushima đánh chìm
hạm đội Nga hoàng năm 1905. Tư lệnh hành quân, trung tá Mitsuo Fuchida
mặc sơmi đỏ, quấn ngang đầu một tấm băng trắng để biểu thị tinh thần
quyết tử của truyền thống võ sĩ đạo, bước vào buồng lái chiếc máy bay
ném bom cùng với viên phi công và hiệu thính viên của mình. Trên đường
băng của 6 tàu sân bay, các máy bay của đợt tiến công đầu tiên đã sẵn
sàng cất cánh. Đợt tấn công thứ nhất gồm 183 máy bay được phóng lên ở
phía Bắc Oʻahu, Sáu máy bay không thể cất cánh do trục trặc kỹ thuật.
Chúng bao gồm: Nhóm thứ nhất (mục tiêu: các thiết giáp hạm và tàu sân
bay) 50 máy bay ném ngư lôi Nakajima B5N trang bị bom xuyên thép 800 kg
(1.760 lb), được tổ chức thành bốn đội 40 máy bay ném ngư lôi B5N trang
bị ngư lôi Kiểu 91, cũng được tổ chức thành bốn đội Nhóm thứ hai — (mục
tiêu: Ford Island và Wheeler Field) 54 máy bay ném bom bổ nhào Aichi D3A
trang bị bom đa dụng 250 kg (550 lb) Nhóm thứ ba — (mục tiêu: máy bay
tại các sân bay Ford Island, Hickam Field, Wheeler Field, Barber’s Point
và Kaneohe) 45 máy bay tiêm kích Mitsubishi A6M để kiểm soát trên không
và bắn phá
Đúng 6 giờ 20, lệnh xuất kích được ban ra. Chỉ trong khoảnh khắc, trong
tiếng gầm rú kinh khủng, 183 máy bay chiến đấu, theo trình tự định sẵn
lao vút lên trời theo những đội hình chữ "V" nối tiếp nhau ào ạt tiến
với tốc độ 125 hải lí/giờ. Mãi đến 7 giờ 35, các máy bay trinh sát mới
điện về "Kido Butai": "Hạm đội địch không có ở Lahaina". Và một lát sau:
Khi đợt máy bay tấn công thứ nhất tiến đến gần Oʻahu, một trạm radar
SCR-270 của Lục quân Hoa Kỳ đặt tại Opana Point gần mũi cực Bắc của hòn
đảo (một vị trí chưa đưa vào hoạt động, đang trong giai đoạn huấn luyện
được vài tháng) phát hiện ra chúng và phát đi lời cảnh báo. Dù những
người vận hành radar báo cáo rằng sóng dội của một mục tiêu lớn chưa
từng thấy; một viên sĩ quan chưa được huấn luyện tại một Trung tâm Thông
tin vừa được đưa vào vận hành một phần, Trung úy Kermit A. Tyler, đoán
chừng rằng đó là do sự có mặt của sáu chiếc máy bay ném bom B-17 đang
được dự định sẽ bay đến. Hướng mà những chiếc máy bay bay đến khá gần
(hai hướng bay vào chỉ lệch nhau vài độ), trong khi những người vận hành
chưa từng thấy một đội hình lớn như vậy trên radar; họ đã thờ ơ không
báo cho Tyler về kích cỡ, trong khi Tyler, vì những lý do an ninh, không
thể báo cho họ biết những chiếc B-17 đang sắp đến (dù điều này được
biết một cách rộng rãi)
Nhiều máy bay Hoa Kỳ bị bắn rơi khi đợt tấn công đầu tiên tiến vào đất
liền, và ít nhất một chiếc qua radio đã phát đi lời cảnh báo dù không
được mạch lạc. Các lời cảnh báo khác, xuất phát từ những chiếc tàu bên
ngoài lối vào cảng, vẫn còn đang được xử lý hoặc chờ đợi để được xác
nhận khi những chiếc máy bay tấn công bắt đầu ném bom và bắn phá. Dù
sao, vẫn không rõ là những lời cảnh báo này có đem lại hiệu quả thiết
thực nào hay không ngay cả khi chúng được hiểu đúng đắn và kịp thời hơn.
Có thể thấy điều đó qua kết quả mà quân Nhật đạt được tại Philippines
về cơ bản giống như tại Trân Châu Cảng, cho dù tướng MacArthur có đến
gần chín giờ báo động rằng quân Nhật đã tấn công Trân Châu Cảng, và đã
có các chỉ thị đặc biệt để tiến hành các hoạt động trước khi đối phương
thực sự tấn công sở chỉ huy của ông.
Từ độ cao 3500 m, đoàn máy bay Nhật bay giữa một biển mây dày dặc tưởng
chừng như vô tận khiến các phi công không tránh khỏi lo lắng. Sau gần
một giờ bay, Fuchida ra lệnh cho hiệu thính viên dò bắt sóng của dài
phát thanh Honolulu để ông theo đó mà xác định hướng bay của phi đoàn.
Cũng nhờ thông tin bắt được qua sóng, Fuchida biết được tình hình thời
tiết vùng trời Hawaii nhiều mây riêng tại Oahy mây thưa thớt; khu vực
Trân Châu Cảng hoàn toàn trong sáng đúng với mong muốn của Fuchida. Lúc 7
giờ 40 phút, Fuchida mừng rỡ nhận ra bầu trời quả nhiên không còn mây
mù. Đúng theo kế hoạch, Fuchida cho toàn phi đoàn lượn theo bờ biển phía
Tây Bắc đảo để tiếp cận mục tiêu. Qua ống nhòm, toàn cảnh Trân Châu
cảng đã hiện ra dưới mắt Fuchida với đầy đủ 8 thiết giáp hạm xếp hàng
thẳng tắp. Chiếc Oklahoma đứng cạnh Maryland, sau đó là chiếc West
Virginia bên chiếc Tennesse, tiếp đến chiếc Arizona đứng cạnh chiếc tàu
công xưởng mang tên Vestal, chiếc Nevada đứng cuối hàng, còn chiếc
California dẫn đầu đứng chếch hàng một chút. Cách một quãng về phía
trước là kì hạm của hạm đội, chiếc Pensylvania có hai khu trục hạm hộ
tống. Ngoài ra còn nhiều tuần dương hạm và khu trục hạm khác nhưng không
có tàu sân bay nào. Cả một hạm đội lớn chưa từng thấy đã gây cho các
phi công Nhật một ấn tượng rất mạnh.
Phần không kích của cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng bắt đầu lúc 7 giờ
48 phút sáng giờ Hawaii (3 giờ 18 phút sáng ngày 8 tháng 12 giờ tiêu
chuẩn Nhật Bản, như ghi nhận trên các con tàu thuộc Bộ đội cơ động),
bằng việc tấn công vào Kaneohe. Tổng cộng có 353 máy bay Nhật Bản gồm
hai đợt bay đến được đến Oʻahu. Để phát lệnh tấn công, Fuchida đã phát
đi mật mã "To ... To ... To ..." với một phát súng bắn pháo hiệu màu
đen, đây là hiệu lệnh tấn công trong điều kiện địch quân đã bị bất ngờ.
Theo đúng dự kiến, 40 máy bay phóng ngư lôi của trung tá Shigeharu
Murata hạ thấp xuống lượn về Trân Châu cảng. 49 máy bay do Fuchida chỉ
huy bắt đầu triển khai theo hướng đó để sẵn sàng nhập cuộc. Đoàn máy bay
ném bom bổ nhào tách làm hai nhóm: 25 chiếc của trung tá Akira Sakamoto
đến sân bay Wheeler, căn cứ máy bay tiêm kích chủ yếu của Không lực Lục
quân Hoa Kỳ còn 26 chiếc do trung tá Kakuichi Takahasi chỉ huy thì đến
Trân Châu cảng và sân bay Hickam gần đó. Nhưng nhóm chiến đấu cơ 43
chiếc do trung tá Shigeru Itaya chỉ huy lại không triển khai được đội
hình do không nhìn thấy pháo hiệu. Fuchida buộc phải bắn thêm phát pháo
hiệu nữa. Các phi công lái máy bay ném bom bổ nhào trông thấy cho rằng
pháo hiệu thứ hai này có nghĩa là tính bất ngờ đã mất nên họ thực hiện
theo phương án hai dự phòng là bổ nhào ném bom xuống các sân bay làm cho
kế hoạch bị xáo trộn vì các máy bay phóng ngư lôi và ném bom bổ nhào đã
hành động cùng một lúc. Đúng 7 giờ 53 phút, ngay trước khi trái bom đầu
tiên rơi xuống Trân Châu cảng, Fuchida đánh đi mật mã thứ hai "Tora ...
Tora ... Tora ... ". Mật mã này có nghĩa là cuộc tấn công đã được đảm
bảo hoàn toàn bất ngờ. 171 máy bay trong đợt thứ hai tấn công các sân
bay Bellows Field của Không lực Hoa Kỳ gần Kaneohe ở rìa phía Đông của
hòn đảo và Ford Island. Chỉ có khoảng một chục chiếc P-36 Hawk và P-40
Warhawk đối đầu với lực lượng Nhật Bản.
Thủy thủ trên những con tàu chiến Hoa Kỳ tỉnh giấc do tiếng báo động,
bom nổ và tiếng súng; buộc những con người còn đang ngái ngủ vội vã mặc
quần áo và lao đến các vị trí trực chiến. Bức điện nổi tiếng "Air raid
Pearl Harbor. This is not drill" (Trân Châu Cảng bị không kích. Đây
không phải là diễn tập), được gửi từ sở chỉ huy Không đoàn Thám sát 2,
là vị chỉ huy cao cấp đầu tiên tại Hawaii trả lời. Những người phòng thủ
hoàn toàn không được chuẩn bị. Các kho đạn còn đang bị khóa lại, máy
bay đậu sát cánh lại với nhau ngoài bãi đậu để ngăn ngừa phá hoại, các
khẩu pháo không có người (không có khẩu pháo 5 inch/38 nào của hải quân
và chỉ có một phần tư số súng máy hoạt động, và chỉ có ba trong tổng số
31 khẩu đội Lục quân đi vào hoạt động). Cho dù với tình huống như vậy và
tình trạng báo động thấp, nhiều quân nhân Hoa Kỳ đã phản ứng một cách
hiệu quả trong trận đánh. Thiếu úy Joe Taussig đã đưa chiếc thiết giáp
hạm USS Nevada của anh khởi hành từ tình trạng lạnh máy trong quá trình
cuộc tấn công. Một trong các tàu khu trục, chiếc USS Aylwin, di chuyển
chỉ với bốn sĩ quan trên tàu, tất cả đều là Thiếu úy và không ai trong
số họ có thâm niên phục vụ nhiều hơn một năm; nó hoạt động ngoài biển
được bốn ngày trước khi sĩ quan chỉ huy của nó tìm cách lên được tàu.
Thuyền trưởng Mervyn Bennion, người chỉ huy chiếc thiết giáp hạm USS
West Virginia(soái hạm của Kimmel), đã lãnh đạo người của ông cho đến
khi bị trúng phải mảnh bom từ một quả bom phát nổ trên chiếc thiết giáp
hạm USS Tennessee thả neo bên cạnh.
B - ĐỢT TẤN CÔNG THỨ HAI :
Đúng 7 giờ 15, các máy bay của đợt tấn công thứ hai dưới sự chỉ huy của
Trung tá Shigekazu Shimazaki bắt đầu cất cánh bao gồm 171 máy bay: 54
chiếc B5N, 81 chiếc D3A và 36 chiếc A6M. Bốn máy bay đã không thể cất
cánh do gặp trục trặc kỹ thuật. Thành phần và mục tiêu của đợt tấn công
này là: Nhóm thứ nhất: 54 chiếc B5N trang bị bom đa dụng 250 kg (550 lb)
và 55 kg (120 lb)[27 chiếc B5N – mục tiêu: kho và máy bay tại các sân
bay Kaneohe, đảo Ford và Barbers Point 27 chiếc B5N – mục tiêu: kho và
máy bay tại sân bay Hickam Nhóm thứ hai (mục tiêu: các tàu sân bay và
tuần dương hạm) 81 chiếc D3A trang bị bom đa dụng 250 kg (550 lb), được
tổ chức thành bốn đội Nhóm thứ ba (mục tiêu: máy bay tại các sân bay
Ford Island, Hickham Field, Wheeler Field, Barber’s Point, Kaneohe) 36
chiếc A6M để phòng thủ và bắn phá.
Đợt tấn công thứ hai được chia làm ba nhóm. Một nhóm được giao nhiệm vụ
tấn công Kāneʻohe, số còn lại tập trung vào Trân Châu Cảng. Các nhóm tấn
công tách rời đã bay đến địa điểm tấn công hầu như đồng thời từ nhiều
hướng khác nhau.
Thiết giáp hạm USS California đang chìm.
Hai quả ngư lôi đầu tiên đã đánh trúng thiết giáp hạm Oklahoma. Hai giây
sau, thêm 2 quả nữa đập mạnh vào sườn tàu và nổ tung. Nước tràn vào,
tàu nghiêng 30 độ. Phó hạm trưởng Ken Worthy ra lệnh đóng kín các của
sập, ngăn không cho nước tràn vào các khoang khác. Tàu không bị chìm
ngay, nhưng nước vẫn vào. Vài phút sau nó lại nhận thêm một chùm bom nữa]
Loạt ngư lôi tiếp theo đánh trúng chiếc USS Utah, vốn là một thiết giáp
hạm đã 33 năm đi biển, nay được tháo bỏ mọi vũ khí để trở thành chiếc
tàu bia dành cho huấn luyện. Tiếp đó các thiết giáp hạm West Virginia và
California bắt đầu bị trúng ngư lôi riêng thiết giáp hạm California
trúng phải hai bom và hai ngư lôi. Khói đen cuồn cuộn bốc lên từ nhũng
chiếc tàu bị ngư lôi đánh trúng. Người Mĩ cho rằng, độ sâu của vịnh biển
chỉ 10m không thể phóng ngư lôi được, cho nên họ chỉ đề phòng máy bay
ném bom và tàu ngầm mà không thả lưới ngăn ngư lôi quanh các chiến hạm.
Giờ đây, họ đã phải bất ngờ chứng kiến phát minh mới của người Nhật về
cách dùng ngư lôi ở vùng biển nông: cho máy bay bay sát mặt biển với tốc
độ chậm để phóng ra những quả ngư lôi lướt trên mặt nước với tốc độ
cũng rất chậm, chỉ khoảng 30-40 hải lý/giờ.
Đến lúc 8 giờ, tin về cuộc tấn công Trân Châu cảng mới được báo về
Washington và các hạm tàu trên biển. Hỏa lực phòng không từ các chiến
hạm và trên bờ bắn lên mỗi lúc một mạnh. Trên nhiều chiến hạm, người ta
buộc phải phá cửa các hầm chứa vũ khí đạn dược vì không có thời gian để
tìm chìa khóa. Những đám khói đen, trắng của đạn phòng không nổ tung
trên nền trời xanh mỗi lúc một thêm dày đặc, gây khó khăn cho các phi
công Nhật. Hỏa lực phòng không tuy rất mạnh nhưng lại thiếu tổ chức, nên
kết quả bị hạn chế. Trong lúc hoảng loạn, người ta đã lắp cả đạn huấn
luyện vào pháo phòng không để vạch lên trời những đường đạn vô ích. Tám
phút sau khi bị quả ngư lôi đầu tiên đánh trúng thiết giáp hạm Oklahoma
đã bị lật nhào. Nước tràn qua những chiếc cửa sập không thể đóng lại
được nữa. Hơn 400 sĩ quan và thủy thủ mắc kẹt bên trong chết chìm cùng
với tàu. Các cột buồm nằm dưới nước, trên mặt biển chỉ còn nhô lên mạn
bên phải và một phần của sống tàu. Tiếp theo đó, thêm một loạt bom và
ngư lôi đánh trúng chiếc California khiến nó bốc cháy dữ dội và chìm tại
chỗ chỉ còn nhô mấy cột buồm lên khỏi mặt nước.
Chiếc Arizona bị ngư lôi đánh hụt, nhưng các máy bay ném bom đã rót
trúng nó 5 trái bom cùng một lúc. Một trong 5 trái đó chui vào ống khói
xuống bên dưới nổ ngay ở hầm chứa đạn. Chiếc tàu phát nổ long trời lở
đất với một cột khói và lửa cao 300m rồi gãy làm đôi trong 9 phút. Cả
hai phần tàu chúi xuống biển rồi từ từ chìm dần làm 1.102 người chết
theo tàu. Trong số các tổn thất về nhân mạng về phía Hoa Kỳ, gần một nửa
là do vụ nổ hầm đạn phía trước của chiếc thiết giáp hạm USS Arizona sau
khi nó bị trúng phải một quả bom 40 cm (16 inch) cải biến. Trên mặt
nước, hàng ngàn người bơi khỏi các tàu đang cháy, định vào bờ đảo Ford
nhưng mặt nước bị ngập dầu dày hơn 3 phân, bắt cháy như một biển lửa.
Phần đông những người nhảy xuống nước đều chết cháy.
Từ trên không nhìn xuống, nhiều phi công Nhật lầm tưởng chiếc Utah là
một tàu sân bay, vì nó đậu riêng một chỗ ở bờ bên kia đảo Ford và có mặt
boong trống trải Do đó khoảng nửa tá máy bay Nhật đã lao vào tấn công
liên tục chiếc tàu bia không có vũ khí tự vệ này. Lúc 8 giờ 12 phút,
chiếc Utah bị lật úp. Giống như chiếc Maryland đã bị thương sau khi
chiếc Oklahoma đậu bên ngoài nó bị đánh chìm, chiếc Tennessee bắt đầu bị
trúng bom và ngư lôi sau khi chiếc West Virginia không còn đứng bên để
che cho nó nữa. Còn Nevada là chiếc tàu duy nhất dứng cuối hàng các
thiết giáp hạm, phơi mình chịu hỏa lực máy bay Nhật. Một quả ngư lôi
đánh trúng mũi tàu làm nó hơi chúi xuống và một quả bom rơi trúng boong
phía mạn tàu. Mặc dù bị thương, nhưng các bộ phận điều khiển và vô tuyến
điện trên tàu vẫn còn tốt. Một sĩ quan đã nhận lấy quyền chỉ huy trong
khi vắng hạm trưởng để đưa tàu chạy thoát ra biển. Thông thường, muốn
cho thiết giáp hạm di chuyển, cần phải có hai giờ rưỡi để khởi động các
nồi hơi và sử dụng 4 tàu kéo. Lần này may mắn là một nồi hơi của tàu đã
được khởi động từ sáng sớm để thử máy, nhờ đó tàu có thể rời cảng sau 45
phút kể từ lúc máy bay Nhật bắt đầu tấn công. Nhờ sự chỉ dẫn luồng lạch
của viên thuyền trưởng một tàu cuốc đậu tại lối ra vào cảng, chiếc
Nevada vừa chạy vừa chiến đấu và khéo léo xoay chuyển trong bến cảng
thật chội đầy khói lửa để tránh bom và ngư lôi. Hai tàu kéo được phái
đến giúp thiết giáp hạm này đi vào luồng lạch.
Thiết giáp hạm USS Arizona nổ tung.
8 giờ 50 phút, các máy bay của đợt tấn công thứ hai tiếp cận Oahu theo
hướng ngược với đợt 1: vòng qua bờ đông của đảo để tiến tới mục tiêu.
Với sự yểm trợ của 36 chiến đấu cơ, 54 máy bay ném bom độ cao hướng tới
các sân bay và 78 máy bay ném bom bổ nhào do trung tá Takashige Egusa
chỉ huy ập đến Trân Châu Cảng. 8 giờ 55, Shimazaki hạ lệnh tấn công,
nhưng khói lửa mịt mù và hỏa lực phòng không cực mạnh đã làm cho các phi
công mới nhập cuộc khó có thể ném bom chính xác. Fuchida ra lệnh cho
các máy bay đợt 1 quay trở về còn mình thì nhập vào đợt 2, lập tức bắt
liên lạc với Shimazaki để chỉ dẫn và giao nhiệm vụ cho các phi công mới
tới. Các máy bay ném bom bổ nhào của Egusa đã nhanh chóng xác định được
mục tiêu của mình: đánh tiếp vào các thiết giáp hạm còn lại và tấn công
các tuần dương hạm, khu trục hạm.
Từ trên không nhìn qua màn khói, các phi công Nhật vẫn thấy rõ chiếc
Nevada đang di chuyển. Khi thiết giáp hạm đã tiến vào luồng lạch, máy
bay Nhật đã dồn dập tấn công nhằm đánh chìm nó để bịt kín lối ra vào
Trân Châu Cảng]
Thêm 6 quả bom rơi trúng tàu làm tung lên trời chiếc cầu gần ống khói
và những cấu trúc phía trước. Tuy vậy chiếc Nevada vẫn ngoan cường bắn
trả mãnh liệt và tiếp tục tiến lên. Nhưng đến 9 giờ 10 phút thì tàu bị
mắc cạn ngay gần lối ra vào cảng. Nhờ đó, viên hạm trưởng mới đuổi kịp
và leo lên mạn tàu, nhận lại trách nhiệm chỉ huy của mình. Trong suốt
trận đánh, trên chiếc Nevada có 50 người tử trận và hơn 100 người khác
bị thương. Nhưng các thủy binh dũng cảm đã giữ cho con tàu của mình
không bị đánh chìm.
Thiết giáp hạm Pennsylvania, kì hạm của hạm đội, với hai khu trục hạm
đứng sát hai bên cùng đậu ở ụ tàu. Nước trong ụ tàu đã được hút ra, các
chiến hạm được hạ xuống và nhũng tấm chắn cao của ụ tàu khô đã che chở
cho các chiến hạm bên trong thoát khỏi đòn giáng của ngư lôi Nhật. Nhưng
những tấm chắn đó lại cản trở tầm nhìn của các xạ thủ phòng không trên
tàu, khiến họ không thể thấy máy bay địch từ xa và luôn bị tấn công bất
ngờ. Nhận ra điều đó, một công nhân lái chiếc cần cẩu chạy trên đường
ray dọc theo tấm chắn ụ tàu tên là George Walters đã quyết định đóng góp
phần mình vào việc bảo vệ các chiến hạm. Ngồi trên buồng lái cần cẩu ở
độ cao 15m, Walters theo dõi các máy bay địch tiến đến ụ tàu và cho cần
cẩu di động về hướng có máy bay. Các xạ thủ nhận ra ý nghĩa của hành
động này đã hướng mũi súng theo chiếc cần cẩu để kịp thời bắn chặn máy
bay địch, hạn chế độ chính xác của các trận mưa bom. Nhờ vậy, mặc dù cả
hai khu trục hạm cùng chiếc cần cẩu có người công nhân anh hùng ấy bị
bom phá hủy tan tành, thiết giáp hạm Pennsylvania chỉ bị thương không
nặng lắm.[ Theo nhận định của Fuchida, các máy bay của đợt 2 đã lao vào
tấn công những chiến hạm có hỏa lực phòng không mạnh nhất bởi vì những
chiến hạm này đã bị tổn thất ít hơn trong đợt tấn công thứ nhất.
Thiết giáp hạm USS West trúng phải bảy ngư lôi, quả thứ bảy xé rách bánh
lái của nó. Trong giây lát, chiếc West Virginia bốc cháy và chìm xuống
biển khi vẫn giữ thăng bằng Thiết giáp hạm USS Oklahoma trúng phải bốn
ngư lôi, hai quả cuối cùng chạm đích phía trên đai giáp bảo vệ làm cho
nó bị lật úp. Thiết giáp hạm USS Maryland trúng phải hai quả đạn 40 cm
được cải biến, nhưng không bị hư hại nghiêm trọng.
Tàu khu trục USS Shaw nổ tung sau khi hầm đạn phía trước của nó bị đánh trúng.
Mặc dù quân Nhật tập trung vào các tàu chiến lớn quan trọng nhất, họ
cũng không bỏ qua các mục tiêu khác. Tàu tuần dương hạng nhẹ USS Helena
bị trúng ngư lôi, và sự rung chuyển của vụ nổ đã làm lật úp chiếc tàu
thả mìn USS Oglala kế cận. Hai tàu khu trục đang nằm trong ụ tàu bị phá
hủy khi bom xuyên trúng bồn chứa nhiên liệu của chúng. Nhiên liệu bị rò
rỉ đã bắt lửa, và nỗ lực dập lửa bằng cách làm ngập ụ tàu đã khiến dầu
đang bốc cháy dâng cao thiêu rụi con tàu. Tàu tuần dương hạng nhẹ USS
Raleigh bị thủng một lỗ bởi ngư lôi. Tàu tuần dương hạng nhẹ USS
Honolulu bị hư hại nhưng vẫn tiếp tục hoạt động. Tàu khu trục USS Cassin
bị lật úp, còn tàu khu trục USS Downes bị hư hỏng nặng. Chiếc tàu sửa
chữa USS Vestal neo đậu bên cạnh chiếc Arizona bị hư hỏng nặng và mắc
cạn. Tàu chở thủy phi cơ USS Curtiss cũng bị hư hại. Tàu khu trục USS
Shaw bị hư hỏng đáng kể khi hai quả bom xuyên trúng hầm đạn phía trước.
Nếu như hải quân chỉ lo đối phó với tàu ngầm thì lục quân và không quân
của lục quân trên đảo chỉ đề phòng bọn phá hoại, không hề chuẩn bị đối
phó với một cuộc tấn công bằng không quân. Theo lệnh tướng Short, máy
bay trên các sân bay đều được xếp thành từng tốp cánh sát cánh và thẳng
hàng với nhau trên những bãi đậu hoàn toàn trống trải. Bố trí như vậy là
để chống phá hoại máy bay, nhưng lại tạo ra điều kiện lý tưởng để không
quân dịch tiêu diệt chúng. Các thủy phi cơ tại căn cứ Kaneohe của hải
quân cũng xếp hàng thẳng tắp.
7 giờ 50 phút, loạt bom đầu tiên đã rơi xuống sân bay Wheeler, căn cứ
chính của các chiến đấu cơ. Các sĩ quan không quân Hoa Kỳ đang ngủ trong
một doanh trại gần sân bay choàng tỉnh dậy và nhốn nháo hẳn lên. Có
người tưởng là động đất, người khác cho rằng máy bay của hải quân diễn
tập. Nhưng khi chạy ra ngoài thì họ đã hiểu: các máy bay Nhật nối tiếp
nhau bổ nhào xuống ném bom sân bay. Đó chính là đoàn máy bay ném bom bổ
nhào của trung tá Akira Sakamoto. Những tốp máy bay Mĩ đậu sát nhau trên
bãi đã bùng cháy. Một số phi công Hoa Kỳ nâng đệm trải giường lên đầu
chạy ra sân bay để cố cứu máy bay của mình.
7 giờ 55 phút, máy bay Nhật thuộc phi đoàn của trung tá Kakuichi Takashi
bắt đầu ném bom tấn công sân bay Hickam. Lục quân và không quân trên
đảo được báo động gần như cùng lúc với hải quân. Từ các sân bay, người
ta dùng bất cứ loại vũ khí nào kiếm được để bắn lên trời: từ súng máy,
súng trường cho đến cả súng lục Nhưng hỏa lực chủ yếu vẫn dựa vào hơn 80
khẩu pháo phòng không cỡ 3 inches, 20 pháo phòng không 37 mm và hơn 100
súng máy cỡ lớn nhưng vì thiếu tổ chức phối hợp nên không gây thiệt hại
đáng kể cho máy bay Nhật.
Chỉ trong ít phút đầu, các căn cứ không quân của lục quân là Wheeler,
Hickam, Bellows cũng như các căn cứ không quân của hải quân ở Kaneohe,
đảo Ford và sân bay Ewa đều bị tàn phá khủng khiếp. Phối hợp với các máy
bay ném bom bổ nhào, các chiến đấu cơ Nhật cũng sà xuống xả súng vào
các sân bay và các ổ phòng không. Không một máy bay nào của hải quân Mĩ
có thể bay lên được vì hầu hết chúng đã bị phá hủy. Các thủy phi cơ đã
chìm hoặc cháy ngay trong nhà để máy bay. Các phi công của hải quân trên
đảo Ford mất hết máy bay đã nấp sau các cây cọ để chiến đấu bằng súng
lục và súng trường.[ Trên tất cả các sân bay của lục quân, cũng chỉ có
10 máy bay Mĩ cất cánh. Trong trận không chiến không cân sức trên bầu
trời Oahu sáng hôm đó, các máy bay này đã hạ được 11 máy bay Nhật. Trong
đó, chỉ riêng hai trung úy George Welch và Kenneth Taylor đã bắn rơi 7
chiếc và trở thành các anh hùng không quân đầu tiên của Hoa Kỳ trong
cuộc chiến tranh này.
Khoảng 8 giờ, các pháo đài bay khổng lồ B-17 có 4 động cơ của Hoa Kỳ mà
người ta chờ đón đã đến Oahu sau khi hoàn tất chuyến bay kỉ lục 14 giờ
không nghỉ. Thiếu tá Truman Landon chỉ huy phi đội đi trong tốp đầu gồm 6
chiếc. Trông thấy nhiều chiến đấu cơ lượn vòng trên đảo, ông nghĩ rằng
không quân Mĩ ở đây đang bay lên để đón chào đội bay của mình. Nhưng khi
các chiến đấu cơ ấy lao vút đến gần các pháo đài bay và bắn xả vào các
máy bay Mĩ, thì Landon đã nhận rõ tình hình. Các máy bay của Landon bay
tán loạn và vội vã tìm nơi hạ cánh. Chịu đựng cùng một lúc từng tràng
đạn súng máy của các máy bay Nhật và hỏa lực phòng không Mĩ, chiếc pháo
đài bay của Landon cùng 4 chiếc khác lần lượt đáp xuống sân bay Hickam
giữa những máy bay đang bốc cháy trên mặt đất, còn 1 chiếc bay lên phía
Bắc và hạ cánh xuống sân bay Bellows đang bị tàn phá.
Tốp 6 chiếc pháo đài bay thứ hai do đại úy Richard Cannichael chỉ huy
cũng dự định đáp xuống Hickam nhưng tình hình nguy hiểm ở đây đã làm
chúng phải phân tán đi nhiều hướng. Hai chiếc đến Wheeler nhưng bị bắn
mạnh lại phải vòng về Haleiwa và hạ cánh một cách khó khăn trên đường
băng quá ngắn của sân bay này. Một chiếc bay lên tận mỏm cực bắc của đảo
để đáp xuống một bãi đất hoang gần biển. Ba chiếc còn lại liều mạng hạ
cánh tại Hickam giữa làn đạn phòng không bắn xối xả. Trên thân các pháo
đài bay, ngoài phù hiệu không quân còn có hàng chữ “USARMY" viết rất
lớn. Nhưng trong cơn hoảng loạn, các xạ thủ phòng không Mĩ hoặc đã không
nhận thấy hoặc cho rằng quân Nhật đã sơn lên thân máy bay chữ ấy để
đánh lừa họ. Nhờ có vỏ thép dày và cấu tạo đặc biệt, các pháo đài bay Mĩ
không bị đạn súng máy và đạn phòng không hủy diệt. Tất cả đã hạ cánh an
toàn với một số tổn thương.
Một lúc sau, sau khi hoàn tất việc đua một đội hạm tàu và các chiến đấu
cơ đến đảo Wake, tàu sân bay Mĩ Enterprise do đô đốc William Halsey điều
khiển trở về căn cứ. Sáng 7 tháng 12, còn cách Oahu 200 dặm về phía
Tây, khi chưa được biết về cuộc tấn công Trân Châu Cảng, đô đốc Halsey
đã phái một đoàn máy bay gồm 19 chiếc bay về trước để thăm dò tình hình
và báo cáo với Bộ tư lệnh hạm dội về nhiệm vụ đã hoàn thành. Gần 8 giơ
30 phút, tốp đầu tiên trong số đó gồm 6 máy bay phóng ngư lôi đã tiếp
cận Trân Châu Cảng và chứng kiến một cảnh tượng mà các phi công của đội
bay cho là "cuộc diễn tập ngày chủ nhật". Lúc sắp sửa hạ cánh xuống sân
bay trên đảo Ford, máy bay của họ bị các chiến đấu cơ Nhật bám đuôi và
bắn xối xả đồng thời hỏa lực phòng không Mĩ cũng tập trung bắn vào họ.
Khi các phi công Mỹ hiểu rõ sự tình thì đã muộn: 5 máy bay của họ bị bắn
rơi, thỉ còn 1 chiếc đáp xuống sân bay với thương tích đầy mình.
Kho chứa máy bay tại đảo Ford đang cháy.
Thành phố Honolulu chỉ bị một trái bom Nhật lạc hướng rơi trúng. Còn 40
vụ nổ khác trong thành phố là do lực lượng phòng không Mĩ gây ra, làm 68
thường dân chết và bị thương.Đúng 9 giờ 45 phút, Mitsuo Fuchida ra lệnh
cho tất cả các máy bay Nhật quay tụ về mũi đất Kaena để quay về hạm
đội, kết thúc cuộc tấn công. Tiếng đạn bom im bặt, nhưng trên bầu trời
Oahu vẫn còn một máy bay Nhật bay lượn thêm nửa giờ nữa. Đó là máy bay
của tư lệnh hành quân Fuchida đang xác định lại lần cuối cùng kết quả
của trận đánh. Những đám cháy vẫn còn bốc cao trên cảng làm ông khó quan
sát, nhưng Fuchida cũng chụp được nhiều bức ảnh tốt. Việc đánh giá mức
độ hủy diệt tại các sân bay có khó khăn hơn nhưng thực tế trên trời
không hề có một máy bay Hoa Kỳ nào đã cho thấy được kết quả.
Gần 10 giờ sáng, lần lượt các máy bay phóng ngư lôi, các máy bay ném bom
và sau cùng là các chiến đấu cơ của đợt tấn công thứ nhất đã quay trở
về đoàn chiến hạm "Kido-Butai". Một giờ sau, đến lượt các máy bay của
đợt hai hạ cánh. Các máy bay vừa mới trở về lập tức được sửa chữa, nạp
nhiên liệu, lắp vũ khí để chờ lệnh xuất kích. Trung tá Genda lên gặp đô
đốc Nagumo đề nghị cho hạm đội lưu lại Hawaii thêm một số ngày nữa để
tìm kiếm và tiêu diệt các tàu sân bay địch.
Khoảng gần giữa trưa, chiếc máy bay cuối cùng mang số hiệu 321 đáp vội
vã xuống boong kì hạm Akagi, đó là máy bay của Fuchida. Bất chấp những
lời nài nỉ của Fuchida và Genda nên xuất kích đợt tấn công thứ ba, đúng
13 giờ, đô đốc Nagumo ra lệnh nhổ neo và toàn thể các chiến hạm của
"Kido-Butai" quay sang hướng Tây thẳng tiến về bờ biển Nhật Bản.
Ở cách Hawaii hơn 5000 dặm, Hạm đội Liên hợp thả neo tại một vịnh biển
thuộc hòn đảo nhỏ Hashirajima gần thành phố Hiroshima bên bờ Nội Hải
(Nhật Bản) được đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu từ khi bắt đầu
cuộc tấn công Trân Châu Cảng. Ngay từ 2 giờ sáng, đô đốc Isoroku
Yamamoto và Bộ tham mưu của ông đã có mặt trong buồng chỉ huy thiết giáp
hạm Nagato với một tấm bản đồ lớn của vùng Hawaii trên bàn và một máy
khuếch đại âm thanh vô tuyến trên tường. Khoảng 8 giờ, trung tá Watanabe
ghi nhận tổn thất của Hoa Kỳ trên một tờ giấy và trao cho tư lệnh đọc:
Thiết giáp hạm: 3 chiếc chìm, 4 chiếc bị hư hỏng.Tuần dương hạm: 2 chiếc
bị hư hỏng.Khu trục hạm: 2 hoặc 3 chiếc bị hư hỏng.Máy bay bị phá: hàng
trăm chiếc.
Sau khi nghiên cứu một lát, Yamato ra lệnh "Quá tốt nếu là sự thật. Kiểm
chứng lại. Chiều nay khi nào chắc chắn rồi mới trình Thiên hoàng.. Trên
thực tế, số liệu thực sự về tổn thất Hoa Kỳ còn lớn hơn báo cáo ấy
C- TỔN THẤT HAI BÊN :
1- VỀ PHÍA HOA KỲ :
Chín mươi phút kể từ khi bắt đầu, cuộc tấn công kết thúc. 2.386 người Mỹ
bị thiệt mạng (55 người là thường dân, đa số bị giết khi các quả đạn
pháo phòng không không được kích nổ rơi xuống các khu vực dân cư), và
thêm 1.139 người khác bị thương. Mười tám tàu bị đánh chìm, kể cả năm
chiếc thiết giáp hạm.
Trong số 402 máy bay Mỹ có mặt tại Hawaii, 188 chiếc bị phá hủy và 159
chiếc bị hư hỏng, 155 trong số đó đậu trên mặt đất. Hầu như không có
chiếc nào thực sự sẵn sàng để cất cánh nhằm bảo vệ căn cứ. Trong số 33
chiếc thủy phi cơ PBY ở Hawaii, 24 chiếc bị phá hủy và sáu chiếc khác bị
hư hỏng nặng đến mức không thể sửa chữa, ba chiếc khác đang phiên đi
tuần tra khi cuộc tấn công xảy ra đã quay trở về an toàn. Pháo phòng
không cũng đã bắn nhầm một số máy bay Mỹ, kể cả năm chiếc xuất phát từ
tàu sân bay USS Enterprise trên đường quay về. Cuộc tấn công của Nhật
vào các trại binh cũng đã gây thêm một số thương vong.
2- VỀ PHIÁ NHẬT :
Về phía Nhật, 55 phi công và chín thủy thủ tàu ngầm tử trận cùng một
người bị bắt làm tù binh. Trong số 414 máy bay tham gia tấn công, 29
chiếc bị mất trong trận đánh (chín chiếc trong đợt tấn công thứ nhất và
20 chiếc trong đợt thứ hai), cùng 74 chiếc khác bị hư hại do hỏa lực
phòng không từ mặt đất.
Khả năng thực hiện đợt tấn công thứ ba
Nhiều sĩ quan cấp dưới của Nhật Bản, trong đó có cả Mitsuo Fuchida và
Minoru Genda, kiến trúc sư chính của cuộc tấn công, đã thuyết phục Đô
đốc Nagumo tiếp tục thực hiện đợt không kích thứ ba nhằm tiêu diệt càng
nhiều càng tốt nhiên liệu và ngư lôi dự trữ tại Trân Châu Cảng, cũng như
các cơ sở sửa chữa và ụ tàu. Các sử gia quân sự đều cho rằng việc phá
hủy các cơ sở này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của Hạm đội Thái Bình Dương
nặng nề hơn nhiều so với phá hủy các thiết giáp hạm.[ Nếu chúng bị quét
sạch, "các chiến dịch quân sự nghiêm túc tại Thái Bình Dương phải bị
trì hoãn hơn một năm. Tuy nhiên, Nagumo đã quyết định rút lui vì nhiều
lý do:
Hỏa lực phòng không Hoa Kỳ đã cải thiện đáng kể trong đợt tấn công thứ
hai, và hai phần ba các tổn thất của phía Nhật Bản xảy ra trong đợt này.
Nagumo cảm thấy nếu ông tung ra đợt tấn công thứ ba, ông sẽ phải đặt ba
phần tư sức mạnh tấn công của Hạm đội Liên hợp vào nguy hiểm để càn
quét các mục tiêu còn lại (bao gồm các cơ sở nói trên) trong khi phải
chịu nhiều tổn thất máy bay hơn nữa.
Vị trí của các tàu sân bay Hoa Kỳ vẫn còn chưa được biết. Thêm vào đó,
vị Đô đốc còn lo ngại rằng lực lượng của ông giờ đây nằm trong tầm hoạt
động của những máy bay ném bom Mỹ xuất phát từ mặt đất. Nagumo không
chắc chắn rằng liệu Hoa Kỳ có còn đủ số máy bay còn sót tại Hawaii để
tung ra một cuộc tấn công vào các tàu sân bay của ông hay không .
Một đợt tấn công thứ ba đòi hỏi phải có sự chuẩn bị thích đáng và thời
gian quay vòng, điều này có nghĩa là những máy bay tấn công khi quay trở
về sẽ phải hạ cánh lúc trời tối. Cho đến thời ấy, chưa có lực lượng hải
quân nào phát triển hay thực hành kỹ thuật tàu sân bay ban đêm, nên đây
là rủi ro lớn.
Tình hình nhiên liệu của Lực lượng Đặc nhiệm không cho phép ông nán lại
vùng biển phía Bắc Hawaii lâu hơn nữa, vì ông đang ở sát giới hạn của
khả năng tiếp vận. Việc tiếp tục tấn công sẽ mạo hiểm làm cạn đáng kể
nhiên liệu, thậm chí đến mức phải bỏ lại các tàu khu trục trên đường
quay trở về.
Ông tin rằng đợt tấn công thứ hai về cơ bản đã thỏa mãn mục đích chủ yếu
của nhiệm vụ, đó là vô hiệu hóa Hạm đội Thái Bình Dương, và không cần
thiết phải mạo hiểm để gánh thêm nhiều thiệt hại khác. Hơn nữa, hoạt
động của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thiên về việc bảo toàn sức mạnh hơn
là tiêu diệt toàn bộ đối phương.
Trong một hội nghị trên chiếc thiết giáp hạm Yamoto vào buổi sáng ngày
hôm sau, Yamamoto thoạt tiên ủng hộ Nagumo. Sau này, khi nhìn lại, việc
bỏ sót các ụ tàu, công xưởng sửa chữa và kho dầu mang ý nghĩa sống còn
đó khiến cho người Mỹ có thể phản ứng tương đối nhanh chóng các hoạt
động của Nhật tại Thái Bình Dương. Yamamoto sau đó đã lấy làm tiếc cho
quyết định rút lui của Nagumo và thẳng thừng cho rằng đó là một sai lầm
lớn khi không tung ra đợt tấn công thứ ba
D- NHỮNG HỆ LỤY SAU CUỘC CHIẾN :
12 giờ 30 phút ngày 8 tháng 12, tổng thống Roosevelt đã đọc Tuyên cáo
chiến tranh của Hoa Kỳ đối với Nhật Bản. Ông mở đầu bài diễn văn như
sau:
“ Hôm qua, ngày 7-12, một ngày của sự nhục nhã – Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
đã bị các lực lượng hải quân và không quân của đế quốc Nhật tấn công bất
ngờ và không tuyên chiến….”
Sau khi nói rõ thiện chí hòa bình và sự tráo trở của Nhật Bản trong các
cuộc hội đàm và trong hành động thực tế để dẫn đến chiến tranh, tổng
thống Roosevelt tuyên bố:
“ Tôi yêu cầu lưỡng viện của quốc hội Hoa Kỳ tuyên chiến với Nhật Bản, kể từ ngày chủ nhật hôm qua.”
Hoa Kỳ đã chính thức bước vào cuộc chiến tranh tổng lực với Nhật Bản.
Trong ngày 7 tháng 12, Úc cũng tuyên chiến với Nhật Bản và một ngày sau
đến lượt Hà Lan Tiếp đó, nước Pháp , New Zealand, Canada,… tất cả hơn
20 nước cũng lần lượt tuyên chiến với Nhật.
Tin chiến tranh giữa Nhật và Hoa Kỳ bùng nổ bay đến Berlin một cách đột
ngột trong lúc Đức Quốc xã đang tập trung mọi sự chú ý vào vào mặt trận
phía Đông, nơi Hồng quân Liên Xô đã phản công mãnh liệt đẩy lùi quân Đức
trước Moscow. Liền đó, cũng trong ngày 8 tháng 12, Quốc trưởng Adolf
Hitler đã nhận được thông điệp của chính phủ Nhật, yêu cầu Đức và Ý
tuyên chiến với Hoa Kỳ theo như cam kết trong Hiệp ước Tam cường. Đêm
ngày 9 tháng 12, cả Hitler lẫn Mussolini đã điện trả lời chính phủ Nhật
rằng cam đoan cả ba nước sẽ chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng, không
giảng hòa riêng rẽ nhưng vẫn né tránh việc tuyên chiến với Hoa Kỳ. Trưa
ngày 10 tháng 12, đại sứ Nhật Oshima đã trình lên Quốc trưởng một thông
điệp mới của chính phủ Nhật trả lời điện văn nói trên của Đức và Ý.
Thông điệp này bày tỏ hi vọng quân đội Đức sẽ tiến ngay vào Trung Cận
Đông với ngụ ý Đức nên tuyên chiến]
Ngoại trưởng Đức Joachim von Ribbentrop cố gắng thuyết phục Hitler
không nên tuyên chiến với Hoa Kỳ vì theo Hiệp ước Tam Cường, Đức sẽ
chiến đấu bên cạnh Nhật chỉ khi Nhật bị một nước khác tấn công. Tuy
nhiên, vào lúc ấy, bộ ngoại giao Đức lại nhận được điện của tham tán
ngoại vụ Hans Thompson ở Washington D.C rằng 24 giờ nữa Hoa Kỳ sẽ tuyên
chiến hoặc cắt quan hệ ngoại giao với Đức. Chụp lấy cơ hội này, Hitler
vội vã triệu tập Quốc hội vào ngày 11 tháng 12 và chính thức tuyên chiến
với Hoa Kỳ. Cùng trong ngày hôm ấy, Ý cũng tuyên chiến với Hoa Kỳ và
Hoa Kỳ tuyên chiến với Đức. Hitler đã phát biểu trong dịp này như sau:
“Sự kiện Chính phủ Nhật Bản, vốn đã thương lượng trong nhiều năm cùng
con người này Franklin D. Roosevelt, cuối cùng đã trở nên mệt mỏi vì bị
ông ta chơi xấu một cách vô ơn, đã khiến cho tất cả chúng ta, dân tộc
Đức, cùng tất cả các dân tộc có lương tri khác trên thế giới, cảm thấy
vô cùng thất vọng... Đức và Ý, sau khi xem xét tất cả các điều này và vì
sự trung thành với Hiệp ước ba bên cuối cùng đã buộc phải tiến hành
cuộc chiến chống lại Hoa Kỳ và Anh Quốc, hiệp cùng và sát cánh với Nhật
Bản để bảo vệ và từ đó duy trì sự tự do và độc lập của các quốc gia và
vương quốc của họ... Là kết quả của sư bành trướng chính sách của Tổng
thống Roosevelt, vốn nhắm vào việc chinh phục thế giới và độc tài vô
giới hạn, Hoa Kỳ cùng với Anh Quốc đã không ngần ngại sử dụng mọi phương
cách để tranh chấp các quyền lợi của các quốc gia Đức, Ý và Nhật Bản
thậm chí đến quyền sinh tồn... Không chỉ vì chúng ta là đồng minh của
Nhật Bản, mà còn vì Đức và Ý có đủ sáng suốt và sức mạnh để nhận thức
rằng, trong khoảnh khắc lịch sử này, sự tồn tại hay biến mất của các
quốc gia, có thể được quyết định mãi mãi.”
Không ảnh chụp bên trên hàng thiết giáp hạm tại bờ phía Nam đảo Ford,
ngày 10 tháng 12 năm 1941, cho thấy những thiệt hại mà cuộc tấn công gây
ra ba ngày trước đó. Góc trên bên trái là USS California (BB-44) bị đánh chìm, với nhiều tàu nhỏ vây quanh. Lần lượt chéo từ giữa trái đến góc dưới phải: USS Maryland (BB-46) bị hư hại nhẹ, cùng với USS Oklahoma (BB-37) bị lật úp bên ngoài, và một sà lan đang cặp theo Oklahoma hỗ trợ các công việc cứu hộ. USS Tennessee (BB-43) bị hư hại nhẹ, cùng với USS West Virginia (BB-48) bị đánh chìm bên ngoài. USS Arizona (BB-39)
bị đánh chìm, khi thân tàu bị vỡ do vụ nổ hầm đạm bên dưới hai tháp
pháo phía trước. Đáng chú ý là các vệt dầu đen loang ra mặt nước trong
cảng, xuất phát từ các con tàu bị đánh chìm.
Cho dù cuộc tấn công gây thiệt hại trên diện rộng cho tàu chiến và máy
bay Mỹ, nó đã không ảnh hưởng đến các cơ sở dự trữ nhiên liệu, xưởng sửa
chữa và các cơ quan tình báo tại Trân Châu Cảng.
Cuộc tấn công là một cú sốc thật sự đối với tất cả các nước Đồng Minh
tại Mặt trận Thái Bình Dương. Các thiệt hại tiếp theo sau tạo ra một sự
thụt lùi đáng báo động. Ba ngày sau, sự kiện các tàu chiến Prince of
Wales và Repulse bị đánh chìm ngoài khơi bờ biển Malaya khiến Thủ tướng
Anh Quốc Winston Churchill sau này nhớ lại: "Trong suốt cuộc chiến tranh
tôi chưa bao giờ nhận được một cú sốc trực tiếp đến như thế. Khi tôi
trăn trở trên giường, nỗi sợ hãi bao trùm lấy tâm trí tôi. Không còn
chiếc tàu chiến chủ lực Anh hay Hoa Kỳ nào còn lại trên Ấn Độ Dương và
Thái Bình Dương trừ những chiếc của Hoa Kỳ còn sống sót tại Trân Châu
Cảng đang vội vã lui về California. Trên các vùng biển mênh mông này
người Nhật đang là bá chủ, và chúng ta đang yếu đuối và trần trụi ở mọi
nơi".
May mắn cho phía Hoa Kỳ, các tàu sân bay Hoa Kỳ đã không bị đụng đến
trong cuộc tấn công của Nhật; nếu không thì khả năng tiến hành các chiến
dịch tấn công của Hạm đội Thái Bình Dương sẽ bị tê liệt trong khoảng
một năm (nếu không chuyển hướng một phần lực lượng Hạm đội Đại Tây
Dương). Như đã thấy, lực lượng thiết giáp hạm bị loại bỏ khiến Hải quân
Hoa Kỳ không còn sự lựa chọn nào khác ngoài cách dựa vào các tàu sân bay
và tàu ngầm, chính những vũ khí đã giúp Hoa Kỳ chặn đứng và đảo ngược
thế thượng phong của Nhật Bản. Năm trong số tám thiết giáp hạm được sửa
chữa và quay trở lại hoạt động, nhưng vận tốc chậm của chúng làm giới
hạn hoạt động được bố trí, và chúng phục vụ chủ yếu trong vai trò bắn
phá bờ biển. Một thiếu sót lớn trong tư duy chiến lược của Nhật Bản là
niềm tin về một trận chiến Thái Bình Dương cuối cùng được đấu giữa những
thiết giáp hạm theo đúng học thuyết của Thuyền trưởng Alfred Mahan.
Hậu quả là, Yamamoto (và những người kế tiếp ông) cố dành dụm những
chiếc thiết giáp hạm cho một "trận chiến quyết định" không bao giờ xảy
ra.
Cuối cùng, các mục tiêu không nằm trong danh sách của Genda, như căn cứ
tàu ngầm và ngôi nhà sở chỉ huy cũ, đã chứng tỏ tầm quan trọng lớn hơn
mọi chiếc tàu chiến. Chính những chiếc tàu ngầm đã vô hiệu hóa những con
tàu nặng nề của Hải quân Đế quốc Nhật Bản và đưa tình trạng kinh tế của
Nhật Bản đến mức trì trệ bằng cách phá hỏng sự vận chuyển dầu mỏ và
nguyên liệu thô. Tương tự, tầng hầm của ngôi nhà sở chỉ huy cũ là trụ sở
của đơn vị phân tích mật mã vốn đã góp phần đáng kể vào trận mai phục
Midway và thành công của lực lượng tàu ngầm. Đô đốc Hara Tadaichi
đã tóm lược kết quả cuộc tấn công về phía Nhật Bản bằng một câu nói súc
tích: "Chúng ta thắng một chiến thắng chiến thuật vĩ đại tại Trân Châu
Cảng, và do đó đã thua cả cuộc chiến."
Trong khi đạt được các mục tiêu đặt ra, cuộc tấn công lại tỏ ra hoàn
toàn không cần thiết. Điều mà Đô đốc Isoroku Yamamoto - người đầu tiên
nghĩ ra kế hoạch - chưa bao giờ biết đến, đó là Hải quân Hoa Kỳ ngay từ
năm 1935 đã từ bỏ dự định “xung phong” băng ngang suốt Thái Bình Dương
đến tận Philippines để trả đũa hành động mở đầu chiến tranh (như quy
định trong Kế hoạch Cam). Thay vào đó Hoa Kỳ chấp thuận "Kế hoạch Dog"
vào năm 1940, nhấn mạnh đến việc giữ cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản bên
ngoài khu vực Đông Thái Bình Dương và cách xa con đường biển vận chuyển
đến Úc trong khi Hoa Kỳ tập trung vào việc đánh bại Đức Quốc Xã
Tác giả Robert Leckie nhận xét rằng "Tổng thống Franklin Roosevelt đã
khôn ngoan che dấu những chi tiết của thảm họa này hơn là chịu đựng nguy
cơ về sự hoảng sợ của công chúng, và chỉ công bố những chi tiết này sau
khi Hoa Kỳ đã bắt đầu phản công tại Guadalcanal" vào tháng 8 năm 1942.
Một máy bay tiêm kích Mitsubishi A6M2 "Zero" Nhật Bản thuộc đợt tấn công thứ hai đang cất cánh từ tàu sân bay Akagi vào buổi sáng ngày 7 tháng 12 năm 1941.
Những chiếc Zero thuộc đợt tấn công thứ hai chuẩn bị cất cánh từ tàu sân bay Shokaku để tấn công Trân Châu Cảng
Một máy bay ném ngư lôi Nakajima B5N2 "Kate" Nhật Bản cất cánh từ tàu sân bay Shokaku.
Những chiếc máy bay ném bom bổ nhào Aichi D3A1 "Val" Nhật Bản thuộc đợt tấn công thứ hai đang chuẩn bị cất cánh. Chiếc tàu sân bay Sōryū đang ở phía sau.
Cảnh tượng cuộc tấn công Trân Châu cảng từ góc nhìn của một phi công trên máy bay Nhật vào lúc 7 giờ 55 phút ngày 7 tháng 12
Sau trận tấn công: USS West Virginia (hư hỏng nặng), USS Tennessee (hư hỏng) và chiếc USS Arizona (bị đánh chìm).
E - BÌNH LUẬN VIẾT RIÊNG CHO EN TRY:
Tôi vừa tường trình chi tiết, hình ảnh với quý vị và các bạn một trận
đánh không tiền khoáng hậu của Nhật Bản và Hoa Kỳ, một cuộc đối đầu
sinh tử giữa hai lực lượng Châu Á và Châu Âu trong thế chiến thứ hai. Ở
đây tôi không bình luận về những lý do dẫn đến cuộc chiến như ai đúng
ai sai, vì thời buổi chiến tranh cái đúng bên nầy sẽ là cái sai của bên
kia rất khó nhận định khách quan. Tôi chỉ bình luận về tinh thần, một
yếu tố then chốt khi khởi động chiến tranh từ một nước nhỏ ở Châu Á:
Nhật Bản.
Theo tôi, khi phát động chiến tranh, Nhật Bản chỉ dựa vào một yếu tố
duy nhất : đó là tinh thần yều nước dũng cãm của người Nhật quyết tử cho
tổ quốc quyết sinh. Ai cũng biết rằng Nhật Bản trong thế chiến thứ hai
là một cường quốc Châu Á, họ bành trướng theo chủ thuyết Đại Đông Á,
tức Châu Á phải là của người Châu Á mà những kẻ khác mầu da đều là kẻ
xâm lược. Nhật Bản sẽ là nước lãnh đạo Châu Á đánh đuổi họ. Nhật Bản
theo truyền thống dân tộc, điạ lý, có những nét nổi bật khí nói về đất
nước của họ như: là xứ sở Hoa Anh Đào, là nước Phù Tang có tinh thần
Võ Sĩ Đạo cao thượng.Trong trận chiến Trân Châu Cảng, với một lòng
quyết tử, các chiến sĩ Nhật Bản nhất là các phi công của máy bay ném
bom bổ nhào trước khi ra trận đã vĩnh biệt vợ con, họ đều quấn khăn tang
để tang cho cha mẹ trước như để trả hiếu cho họ vì sau đó họ sẽ không
về nữa (đầu bạc tiễn đầu xanh). Nhiệm vụ của các phi công nầy là tìm
các mục tiêu quan trọng, chí tử của địch như các Hàng Không Mẫu Hạm,
Chiến Hạm Lớn để tấn công. Họ tấn công mà không hề sợ chết trước bức
từng rào lửa đạn dầy đặc phòng không của địch bắn lên. Họ lái máy bay
đâm thẳng vào ống khói các chiến hạm địch như một quả bom sống, sau đó
nổ tung cùng chiến hạm địch để hai bên cùng chết tương tự như những cuộc
đánh bom liều chết của những phần tử cục đoan Hồi Giáo bây giờ khi đánh
vào Toà Nhà Thương Mại Quốc Tế của Mỹ, hay cuộc ám sát thủ tướng Butto
trước đây.
Tinh thần võ sĩ đạo của người Nhật dạy rằng danh dự tổ quốc, cá nhân là
cái gì thiêng liêng cao quý phải bỏ mạng sống ra nếu cần để bảo vệ nó.
Người võ sĩ đạo chỉ có thể bảo vệ danh dự hay chuộc lỗi bằng cách ngồi
xếp bằng, rút gươm ra tự đâm vào bụng, moi cả ruột gan ra ngòai cho đến
khi ngã chết. Tinh thần võ sĩ đạo đó đã ăn sâu vào ý thức dân tộc, họ
đã làm điều đó, và đó là vũ khí duy nhất mà kẻ thù không có, một niềm
tin là họ sẽ thắng trận khi tấn công một cường quốc mạnh nhất thế giới,
còn sung sức và chưa tham chiến lần nào. Với quan điểm phương pháp
phòng thủ hữu hiệu nhất là tấn công, Nhật Bản đã sử dụng chiêu thức
Tiên hạ thủ vi cường kết hơp với những yếu tố bất ngờ Nhật Bản đã làm Mỹ
choáng váng, rúng động trước cú "nock out" bất ngờ, một điều mà họ
không tin là Nhật Bản dám làm.
Cay cú trước trân Trân Châu Cảng, người anh cả Mỹ mới bàng hoàng nhìn
lại lực lượng của ta và địch nên dùng sức mạnh hạt nhân răn đe bằng cách
bỏ hai trái bom nguyên tử xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki của
Nhật , đập tan chính sách Đại Đông Á, làm tham vọng Đế Quốc của Nhật
bị phá sản, dẫn đến Nhật Bản phải giải giáp quy hàng lực lượng Đồng
Minh.
Tôi thiết nghĩ, nếu Mỹ không dùng bom nguyên tử ném xuống hai thành phố
lớn của Nhật thì Nhật ngày nay sê là một Đại Cường Quốc không những của
Châu Á mà còn là của cả thế giới, và biết đâu, nước Việt Nam ta cũng sẽ
được hưởng "sái" trong chánh sách Đại Đông Á của Nhật để biến thành
một nước cường thịnh vùng Đông Nam Á mà các thế lực ngoại xâm cũng phải e
dè.
Chiến tranh bao giờ cũng để lại nhiều đổ nát và hoang tàn. Hậu quả của
nó thật thảm khốc từ vật chất đến tinh thần của cả hai bên thắng trận
cũng như bại trận. Về vật chất thì có thể khắc phục được trong vòng vài
thế kỷ nhưng khắc phục hậu quả đau thương của lòng người phải trải qua
nhiều thế hệ. Con người càng văn minh thì hậu quả chiến tranh càng lớn,
thời gian khắc phục càng lâu dài. Nếu trên thế giới mà loài người cùng
chung một thứ tiếng, chung một mầu da,một dòng máu thì sẽ không có
chiến tranh khốc liệt. Bởi vì lúc đó chỉ có một nước, một quốc gia, tất
cả đều là anh em sống chung một đại gia đình, có mâu thuẫn chăng thì sẽ
giải quyết thương lượng chứ không tàn sát lẫn nhau như bây giờ.
Nhìn lại sự phát triển của các quốc gia trong Thế Giới Sử, sự hình thành
của một nước thường gắn liền với ba chữ "bành trướng, xâm chiếm, tàn
ác". Loài người, các nước nhân danh ai? cái gì để giết đồng loại? Ý
thúc hệ ư? đó chỉ là những lý luận mơ hồ cuả người xây đựng chủ thuyết,
nó có thể đúng trong thời đại nầy nhưng sai với thời đại khác, như một
nhà triết học đã nói "Chân lý không phải chỉ có một, bên nầy dãy núi
Pyréné là chân lý, còn bên kia thì không". Hơn nữa, những người tạo
dựng ra chủ thuyết trong thời họ đang sống không có sự phát triển của
nền văn minh như bây giờ, nên cái nhìn của họ thiển cận như ếch ngồi
đáy giếng thì chân lý phải luôn là cái tay đổi liên tục điều chỉnh không
ngừng. Không ai có thể sống với cái bóng ma dĩ vãng, cái lý luận lỗi
thời để nói chuyện ngày nay, mà có nói cũng chẳng ai tin.Vì những cái
phi lý nấp trong cái bóng hữu lý nên những cuộc chiến tranh liên tiếp
xảy ra mà hai chủ thuyết ĐẠI ĐÔNG Á của Nhật Bản, PHÁT XÍT của ĐỨC hay
các chủ thuyết khác cùng chống lại chủ thuyết TƯ BẢN của các nước Âu và
Mỹ Châu.
Chỉ khi hai trái bom nguyên tử của Mỹ thả xuống hai thành phố lớn của
Nhật, những gì thực sự đã và đang xảy ra trên thế giới trước mắt chúng
ta thì lịch sử mới trả lời là "ai thắng ai" một cách chuẩn xác.
Tài liệu tham khảo:
1-Trích dẫn từ Bách Khoa Toàn Thư mở Wikipedia:
2- At Dawn We Slept. The Untold Story of Pearl Harbor (Gordon w Prange)
3-Peart Harbor coutdown Admiral James O Richardson (Skipper Steely)
4- Thế giới Sử
5-- Tài liệu tổng hợp từ VN và nước ngoài
HUY THANH
---------
EMT sưu tầm
Người võ sĩ đạo chỉ có thể bảo vệ danh dự hay chuộc lỗi bằng cách ngồi xếp bằng, rút gươm ra tự đâm vào bụng, moi cả ruột gan ra ngòai cho đến khi ngã chết
Trả lờiXóaThật đáng khâm phục.Lúc trước em có đọc một bài viết về Nhật Hoàng chịu trách nhiệm về Tân Châu Châu cảng.
Cảm ơn chị giới thiệu bài viết. Chúc chị ngày mới an lành vui vẻ.
Tinh thần yêu nước và dũng cảm của người Nhật thật đáng khâm phục. Qua bài viết này có lẽ đó là chủ ý của anh Huy Thanh muốn khơi lại tinh thần dân tộc của giống nòi Việt Nam để mãi mãi đất nước chúng ta vươn lên không kém gì các quốc gia trên thế giới nói chung và châu Á nói riêng em ạ.
XóaCám ơn em đã có nhận xét cho entry. Chúc em luôn an vui nhé!
bài hay nhưng dài quá bạn à
Trả lờiXóaĐể một bài viết về lịch sử được hay thì cần phải viết dài mới thể hiện được chiều dài của nó chuyển tải đến người đọc những nét chính của cốt truyện bạn ạ.
XóaChúc bạn luôn vui.
Anh Huy Thanh thật giỏi, chị gái Én thật tài, em gái có xem bộ phim Trân châu cảng rồi, nhưng đó mới chỉ là bộ phim, chắc họ hư cấu đi nhiều, thật sợ khi chiến tranh trong bộ phim lại khốc liệt đến vậy, người Nhật họ thật anh hùng ngay cả sóng thần đến họ vẫn đàng hoàng chống chọi, nhất là tính tự giác của họ rất cao thể hiện qua cách xếp hàng chờ hàng cứu trợ rất nghiêm túc ko xô đẩy chen lấn lẫn nhau, VN mình còn phải học hỏi họ nhiều chị gái nhỉ ? (~_~)
Trả lờiXóahttp://d4.violet.vn/uploads/blogs/747728/flower-35.gif
Tinh thần dũng cảm và ý chí vươn lên của người Nhật thật đáng khâm phục. Bộ phim Trân Châu Cảng hư cấu quá nhiều nhất là tình cảm trai gái trong thời chiến làm lu mờ đi tình yêu nước của người Nhật với hai chữ TORO TORO quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Bài viết của anh Huy Thanh không phải là một đoạn phim mà là một đoạn tả chân về lịch sử thế giới để mọi người cùng chiêm nghiệm em ạ.
XóaChúc chị gái ngày mới an lành, thảnh thơi chị gái nhé ! Mời chị gái uống cà phê cho tinh thần sảng khoái nào (~_~)
Trả lờiXóahttp://i247.photobucket.com/albums/gg145/sundakib31/color_c02.gif
Chúc em gái luôn vui và công tác tốt nhé. Cà phê thơm quá, cám ơn em.
XóaBây giờ chị mời em măm kem cho mát.
http://i1184.photobucket.com/albums/z335/tranthuytruc1/landscapse/Food/cong_thuc_lam_kem_2_zpse7ee63f4.jpg
Chuyện ni bạn rành rõi ghê hè. Nghiên cứu một trân VN ta cho anh em thưởng thức với.
Trả lờiXóaTheo EMT biết thì anh Huy Thanh khi viết bài này anh ấy cũng tổng hợp nhiều tài liệu trên internet và trên sách vở ở hải ngoại. Còn về những trận đánh ở VN thì chưa có tài liệu để viết. Rất cám ơn anh đã quan tâm tới bài viết của anh HT.
XóaĐây là trận chiến nổi tiếng trong lịch sử thế giới.... Cảm ơn chị với bài viết nhiều thông tin quý giá
Trả lờiXóaChúc chị chiều thứ 4 an lạc
http://a9.vietbao.vn/images/vn905/choi-blog/50931716_cho_nhan.jpg
Cám ơn MCT đã có nhận xét về bài viết này.
XóaChúc em tối vui.
Cám ơn chi EMT đã đăng lại bài viết của anh HT để mọi người hình dung đầy đủ và rõ nét về Trận chiến Trân Châu Cảng nổi tiếng ấy. Em cũng đã xem bộ phim nói về trận chiến ác liệt ấy, xem đi xem lại mấy lần mà vẫn cứ thấy sững sờ trước mức độ tàn khốc của cuộc chiến không cân sức ấy giữa một bên là máy bay cảm tử Nhật bay đặc trời và một bên là những quân nhân Mỹ không hề có một chút phòng bị tấn công nào...Chiến tranh quả thật là tai họa khủng khiếp của loài người chị nhỉ !
Trả lờiXóaTừ ngàn xưa trong chiến tranh giữa hai nước yếu tố bất ngờ chính là một phương pháp chiến thuật tốc chiến tốc thắng. Có lẽ nước Nhật áp dụng chiến thuật đó em ạ, phải hy sinh nhiều cũng như TQ thường sử dụng chiến thuật biển người lấy đa số áp đảo thiểu số để tạo thắng lợi bất ngờ.
XóaChúc em đêm nay ngủ ngon nhé!
Cám ơn TC đã sang chơi.Chúc em luôn vui nhé.
Trả lờiXóaHihi30 phút mới đọc xong được bài viết này -Chuyện này nghe kể lại vẫn thấy chị nhỉ
Trả lờiXóaChúc chue nhà chiều vui vui nhe -
Viết tài liệu lịch sử anh HT thường viết kỹ và dẫn chứng bằng hình ảnh để có thể thuyết phục đượcngười xem TML ạ. Cám ơn em đã quan tâm tới bài viết của anh HT.
XóaChúc ML luôn vui nhé!
Những bài viết của anh Huy Thanh bài nào em cũng thấy sâu sắc mang tính nhân văn..chiến tranh luôn mang lại nhiều nổi đau cho nhân loại VN cũng không ngoại lệ..ghé sang thăm chúc chị luôn xinh tươi vui vẻ!
Trả lờiXóaĐồng ý với nhận xét chính xác của em, đó cũng là lý do khiến chị hay sang blog anh HT "chôm" bài về để giới thiệu đến bạn đọc.
XóaCám ơn em đã sang chơi và đọc bài của anh HT.
Chúc em ngủ ngon nhé!
Post lên những bài nói về lịch sử nước ta đi cô Yến, như trận Bạch đằng Trần Hưng Đạo, như Đống đa Nguyễn Huệ , như Chi lăng Lê Lợi ... nói chi tụi tư bản dãy chết :D
Trả lờiXóaVì những tài liệu về chiến tranh VN rất ít nên có lẽ anh Huy Thanh không đủ tư liệu để viết những chuyện đã xảy ra hàng mấy thế kỷ trước lịch sử. Cám ơn bạn đã có ý kiến.
XóaBuồn!
Xóazẫn zô không được mà, Nhà của nhà báo có của quí nhiều hay sao mà rào kỹ zữ zậy :D
Trả lờiXóaEntry thật bổ ích và hay giúp cho ta hiểu được những lịch sử trên thế giới .Chúc chị buổi chiều an lành thật vui
Trả lờiXóahttp://4.bp.blogspot.com/-QzFf75wFcWI/T6J7HNGOKII/AAAAAAAAZF8/a8EuTUDkjNI/s1600/0065.gif
Cám ơn em, chị cũng thích bài viết này vì nó bổ ích cho kiến thức của chúng ta về sử thế giới.Chúc em cuối tuần vui nhiều nhé!
XóaHom nay trời nắng, măm kem cho mát nhé em gái.
http://yeugaidep.vn/hinh-nen-dt/thucpham/kem/hinhnenso1com-hinhnen006.jpg
http://caphesach.vn/uploads/news/2012_05/mui-ca-phe.jpg
Trả lờiXóaMời chị cafe nhé!
https://fbcdn-sphotos-h-a.akamaihd.net/hphotos-ak-ash4/t1/1960081_598997633501951_2068838108_n.jpg
XóaCám ơn em, chị mời em cùng thưởng thức nhé!
Sang bên em theo đường link mới thì được nhưng khi com xong, nhấp "xuất bản" vẫn được thông báo "trang web này hiện không có", lạ thật.
Trả lờiXóaCuối tuần rồi chị gái ơi
Trả lờiXóaCùng nhâm nhi cà phê nhé cho đời thêm tươi (~_~)
http://lifeplusimage.com/media/_good_morning_051_gif_50deee66439a3.gif
Cà phê hương vị tuyệt vời
XóaNhâm nhi thưởng thức cho đời thêm vui em gái nhỉ?
Cuối tuần vui nhiều nhé BD. https://lh6.googleusercontent.com/-Q5lMkgcmVR4/T2WEWkNi3MI/AAAAAAAACZ4/7VBYeVbx7kA/s36/01.gif